RSS

Category Archives: Nghiên cứu Tử Vi

LSDN – Cung Quan Lộc

Tác giả: AnKhoa
Nguồn: lysodoanhnhan.com

Bài này do kiba_119 dịch, VDTT chỉnh lý tại tuvilyso.org.
Lưu ý là các thông tin mang tính tham khảo, xem một lá số là một bức tranh tổng thể có tính phối hợp, không thể chỉ dựa vào một sao, một cung, có thể phán đoán được chính xác và đầy đủ.

Cung Quan Lộc có cát tinh miếu vượng địa tọa thủ, như gặp Tả Phù, Hữu Bật và Tử Vi đồng cung, hoặc Tử Vi Hóa Quyền, ắt là nhân vật quan chức cao quý, nếu như cùng lúc có Không Vong Ác Sát tinh thủ, chỉ là chức vị hư huyền, ngoài thì hào hoa mà trong thì hư. Nếu như có Văn Xương, Văn Khúc nhập miếu (cung Tị, Dậu, Sửu) thủ Quan Lộc thì chắc chắn quyền quý. Nếu như đồng thời có hung sát tinh cùng cung, phải phòng quan lộ không thuận sướng, trong cái tốt tiềm ẩn cái xấu. Xương Khúc nhập Quan Lộc chủ điềm cát, thường thuộc hàng quyền quý văn chức, nếu như có Tử Vi, Thiên Phủ, Thiên Tướng và các sao tốt, lại gặp Hóa Lộc, Hóa Quyền thì đại quý. Cung Quan Lộc có các sao Vũ Khúc, Tử Vi, Lộc Tồn, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Tả Phù, Hữu Bật thủ chiếu, chủ võ quý, trong quân đội nắm được quyền lớn. Cung Quan Lộc có cát tinh tọa thủ, cung Mệnh tam phương đồng thời có sát, cát, hung tinh thì tốt xấu không đều, nhưng vẫn không làm mất đi cục, nhiều vị là quan lại địa phương, cán bộ cơ tầng, cận kề danh tiếng, theo đuổi thương nghiệp cũng có thể làm một ông chủ nhỏ, nhưng cuối cùng khó thành tựu lớn.

Các sao ở cung Quan Lộc, nếu như gặp ác tinh như Tứ Sát Không Kiếp, người quyền quý đường quan lộc sẽ bị hạn chế, hoặc thành bại đa đoan. Phải xem miếu vượng lợi hãm và cát tinh nhiều ít ra sao, thì mới có thể biết được người đó sự nghiệp lớn hay nhỏ, thông thuận hay không. (Chú: dịch giả dùng chữ “thông thái” là theo nguyên bản bạch thoại, tiếc là “thông thái” tiếng Việt có nghĩa hiểu biết, nên tôi tạm sửa thành thông thuận, hiểu là hanh thông và tốt đẹp).

Lưu niên Đẩu Quân đến Cung Quan Lộc nguyên thủy, gặp Cát tinh thủ chiếu, người có quan chức chủ đường quan lộc năm đó hanh thông, người bình thường thì chủ sự nghiệp thuận lợi. Gặp hung sát thì chủ năm đó sự nghiệp không thuận lợi, thậm chí có thể vị giáng chức hoặc có chuyện phá tài.

TỬ VI

Người có Tử Vi nhập cung Quan lộc, cả đời sự nghiệp tương đối bình ổn. Người này có năng lực xử lí công việc và năng lực độc lập làm việc rất tốt, thường là quan chức chính phủ, lãnh đạo xí nghiệp lớn, chủ doanh nghiệp tư nhân, thương nhân. Tử Vi nhập Miếu Vượng địa, gặp các sao như Xương Khúc, Phù Bật, Khôi Việt, Tam Thai, Bát Tọa củng chiếu thì đường quan lộc hanh thông, quý đến cực phẩm, trung lão niên càng thêm phát đạt. Người có cách cục không tốt bằng, cũng là nhân viên làm cơ quan chính phủ, có chút quyền quý, nếu kinh doanh cũng khá giả. (chú: “phú túc” là khá giả, có của ăn của để thôi, chưa thể gọi là giàu có như bản dịch nguyên thủy). Có Lộc Tồn, Hóa Lộc, Thiên Mã đồng cung hội chiếu, là quan chức cấp cao, đại viên tài chính, cự phú thương nghiệp. Tử Vi Hóa Quyền, tất liên hệ quyền bính, nhiều sao tốt thì đại quý. Tử Vi Hóa Khoa, vinh danh truyền khắp (có tính hư danh), dễ phát triển trong giới chính trị, văn hóa, sự nghiệp công chúng. Phàm có Tử Vi nhập cung Quan Lộc, đại đa số đều hợp với các công việc một mặt. Tử vi nếu như không có Hóa Quyền hoặc Hóa Lộc, Tả Hữu, Xương Khúc, phú quý đều ít.

Đồng cung với Xương Khúc, Tả Hữu, Khôi Việt, quý về Văn, sự nghiệp thuận lợi. Khôi Việt đồng cung, thường làm việc tại ngân hàng, giữ trách nghiệm tài chính. Sát tinh đồng cung hợp võ chức. Cung mệnh tam phương tứ chính hội nhiều Sát tinh, thì người không phú quý, nếu như Cát Hung hỗn tạp, như có thành tựu thì cũng gian khổ không suôn sẻ, tinh thần bị áp lực nặng nề.

Thêm các sao ác Tứ Sát Không Kiếp, cả đời sự nghiệp không thuận lợi lắm, hay trải qua khó khăn, nhưng không đến mức quá tai hại, vì Tử Vi có tác dụng hóa giải. Người có nhiều hung tinh thì sự nghiệp bình thường, chẳng có phú quý gì đáng nói, ngược lại gặp khó khăn nghiêm trọng, hoặc ngoài hào hoa trong hư rỗng, danh không đúng thực.

Tử Vi Thiên Phủ tại Dần Thân, cung Mệnh tất có Vũ Khúc. Gặp cát tinh, được cát hóa thì lợi cả văn lẫn võ, tất là mệnh phú quý, một đời địa vị hiển hách, tài quan đều đẹp. Trong quân đội, chính giới, công thương, xí nghiệp, tài chính, xây dựng v.v… đều nắm được quyền lớn. Nếu không gặp cát tinh thì chỉ là nhân viên bình thường.

Tử Vi Tham Lang tại Mão Dậu, cung mệnh tất có Vũ Khúc Phá Quân. Là người lắm kỹ xảo đầu cơ, thích mạo hiểm để cầu may mắn. Gặp Lộc Tồn, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Phù, Bật đồng cung có thể đại phú quý, văn võ đều tốt, quyền quý không ít, trong thực nghiệp và chính giới có thể dương danh. Nếu như gặp Tham Lang Hóa Kỵ, sự nghiệp thăng trầm phong ba, hay gặp cản trở khó khăn. Nếu như không có thêm cát tinh, thì kĩ nghệ lập thân, một đời không thuận lợi.

Tử Vi, Thiên Tướng tại Thìn Tuất, cung mệnh chắc chắn là Vũ Khúc, Thiên Phủ. Hợp võ chức, theo đuổi chính trị hoặc kinh doanh thương nghiệp, thêm Cát tinh thì có thể là đại thương gia, quan lớn, danh lợi gồm thâu. Nếu không gặp Cát tinh mà gặp Sát tinh, phú quý không nhiều. Dương Đà Hỏa Linh đồng cung, sự nghiệp khó mong hiển đạt, cung mệnh tam phương cũng cũng không có cát tinh thì có cuộc đời bình thường.

Tử Vi Thất Sát tại Tị Hợi, cung mệnh chắc chắn là Vũ Khúc, Tham Lang. Cả đời sự nghiệp từ đầu đến cuối luôn không được bình yên mấy. Tuổi trẻ không thuận, sau 30 tuổi thì bắt đầu hưng thịnh lên, thích hợp làm kinh doanh. Thêm Lộc Tồn, Tả Hữu có phát triển lớn, làm võ chức thì quý hiển, cung Mệnh gặp Hỏa Linh có thể trở thành người giàu có. Nếu không gặp cát tinh thì bình thường.

Tử Vi Phá Quân tại Sửu Mùi, cung Mệnh chắc chắn là Vũ Khúc, Thất Sát. Là người sáng tạo hơn người, trong sự nghiệp thì dục vọng, ham muốn vô hạn, lại không hòa thuận với cấp trên. Một đời thành lắm bại nhiều, tuyệt không thuận lợi. Nếu hội nhiều cát tinh thì phát đạt trong cảnh cạnh tranh khốc liệt, nếu gặp Xương Khúc Tả Hữu thì sự nghiệp xán lạn huy hoàng. Nếu không có thêm Cát tinh thì sống cuộc đời khó khăn vất vả.

Thiên Cơ

Thiên Cơ chủ yếu là động, ở cung Quan Lộc sự nghiệp tương đối nhiều biến đổi, tất nhiên trong đời nhiều lần thay đổi công việc, hoặc hay thuyên chuyển, hoặc làm nhiều công việc một lúc, hoặc làm nghề nghiệp tự do. Miếu Vượng địa thì sự nghiệp thành công thuận lợi.

Tả Hữu đồng cung hoặc hội họp thì giỏi quy hoạch, xử lý những công việc phức tạp, có thể có quyền lực và địa vị, thường kiêm nhiều công việc. Xương Khúc đồng cung hoặc hội họp quý hiển và nổi tiếng, thích hợp với công việc trong các ngành văn hóa, nghệ thuật, khoa học kĩ thuật, có thể có thành tựu tương đối cao. Khôi Việt đồng cung hoặc hội họp, trong công việc hay gặp quý nhân, ít khi gặp phiền phức, rắc rối. Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa hội họp chủ đại quý, nhất định là quan chức cấp cao, nhân vật chính giới quan trọng, nổi tiếng thiên hạ.

Thiên Cơ bình hòa tại Tị Hợi, là người không dễ có nghề nghiệp ổn đinh, hay chuyển chức, đổi nghề, thay đổi hạng mục kinh doanh, thiếu tính ổn định.

Thiên Cơ hãm địa hoặc gặp Hóa Kỵ, hoặc gặp Không Kiếp, địa vị không cao, tất là người không có nghề nghiệp ổn định, thường thất nghiệp hoặc không tìm được công việc. Nếu gặp thêm Sát tinh thì càng xấu hơn, chỉ có thể làm nhân viên cấp dưới, du thủ du thực không nghề nghiệp, không có thành tựu gì, vì vậy mà tất nhiên khốn khổ.

Thiên Cơ, Thái Âm tại Dần Thân, cung Mệnh tất có Thiên Đồng. Có lợi cho các công việc công chức, phục vụ các cơ quan có tính chất tương đối ổn định, thêm Thiên Mã thì hay phải đi công tác, nếu hội nhiều cát tinh thì tài quan song mỹ. Thiên Cơ hóa Khoa, nhất định làm quan chức quản lí hành chính. Khoa Quyền Lộc hội họp, công danh hiển đạt, đại phú đại quý. Gặp Tứ Sát, Hóa Kỵ, bôn ba đến già, sự nghiệp không thuận lợi.

Thiên Cơ, Cự Môn tại Mão, Dậu, cung mệnh tất có Thiên Đồng. Sự nghiệp hay có nhiều biến động, ở Mão thì tốt hơn ở Dậu, cung Dậu phúc không dài lâu. Có thể theo đuổi các công việc văn hóa, nghệ thuật, quảng cáo, tiêu thụ…, nếu làm thương nghiệp thì có thể là người quản lý.

Gặp Văn Xương Văn Khúc, chủ văn chương cái thế. Ba sao Khoa Quyền Lộc hội họp thì cự phú đại quý, nổi danh trong ngoài. Lộc Tồn đồng cung thì phú quý, dễ làm chính trị. Nếu gặp Sát tinh công việc nhiều cạnh tranh, hợp kinh doanh.

Thiên Cơ Thiên Lương tại Thìn Tuất, cung Mệnh tất có Thiên Đồng, Thái Âm. Cung Thìn tốt hơn cung Tuất. Nếu có Thiên Cơ, Hóa Quyền hoặc Hóa Khoa hoặc hội Lộc Tồn thì có phú quý. Thích hợp đảm nhận các công việc quản lý. Khoa Quyền Lộc gia hội đời sống tất có kỳ ngộ, cự phú đại quý. Mệnh lạc hãm không sao cát thì không kể. Sao cát phù trợ không đủ là nhân viên hạng thường về quản lý, quảng cáo, kinh doanh tiêu thụ. Nếu không có cát tinh, hoặc các hung tinh hội tụ, thì chủ nghèo khó, cả đời gian khổ. Thiên Cơ ở Thìn gặp Hóa Kỵ, lại không có cát tinh thì thay đổi công việc liền liền, không việc gì thành công.

Thái Dương

Thái Dương chủ về quan lộc, nhập cung Quan Lộc có số nắm quyền, tùy vào miếu hãm mà tình hình khác nhau. Nhập Miếu Vượng địa, gặp các cát tinh như Phù bật, Xương Khúc, Khôi Việt, Khoa Quyền Lộc thủ chiếu, đại quý, là quan cấp tỉnh bộ trở lên, sự nghiệp vĩ đại. Hãm địa gặp các cát tinh thủ chiếu thì không mất đi phú quý, nhưng phú quý không bằng được Miếu Vượng địa, mà phúc không dài lâu. Gặp các sao ác Dương Đà Hỏa Linh Không Kiếp Hóa Kỵ thì chủ địa vị thấp kém, phù hoa mà không thực, không có gì gọi là phú quý hay thành tựu.

Thái Dương Miếu Vượng địa, gặp Tứ Sát Không Kiếp, chịu gian khổ, bận bịu, không thuận lợi, nhưng vẫn có thể khắc phục nghịch cảnh, có thời phú quý. Thái Dương Miếu Vượng địa có Hóa Quyền, Hóa Lộc là điềm cực cát. Gặp Hóa Kỵ, chủ cạnh tranh, áp lực, thị phi, nếu như Miếu Vượng, có thể gặp thành công ngoài dự kiến. Nếu không Đắc địa hoặc Hãm địa gặp Hóa Kỵ, chủ thất bại nặng nề. Thái Dương và Thiên Hình đồng cung, đại đa số là quân nhân hoặc nhân viên cảnh vụ.

Thái Dương tại cung Ngọ thủ Cung Quan Lộc, còn gọi là “Nhật lệ trung thiên”, có cái quý của kẻ chuyên quyền, có thể nắm quyền lớn quốc gia, chủ đại phú, có Lộc Tồn đồng cung hoặc hội Lộc Tồn, hoặc gia hội Tả Hữu Xương Khúc, quý không diễn tả được. Nếu không hội cát tinh, chỉ khá giả bình thường thôi. Người này hay kết giao bạn bè, không chuyện gì vẫn bận cuống lên, không có việc thì mua việc vào người.

Thái Dương Thái Âm tại Sửu Mùi, Mệnh Vô Chính Diệu có đối cung Cự Môn Thiên Cơ, một đời sự nghiệp hay biến đổi, chuyển nghề chuyển nghiệp liền liền. Thêm Xương Khúc Tả Hữu, hoặc Thái Dương Thái Âm có Hóa Lộc hoặc Hóa Quyền, là quan chức chính phủ cấp cao, nắm quyền lực chính trị quốc gia.

Thái Dương, Cự Môn tại Dần Thân, Mệnh Vô Chính Diệu đối cung Thiên Cơ Thiên Lương. Hợp với các nghề miệng lưỡi, học nghề chuyên môn thành danh, sự nghiệp thường có danh nhiều hơn lợi, quý nhiều hơn phú.

Không có Sát tinh hội họp thì có thời phú quý, Thái Dương Hóa Lộc chủ đại quý, Hóa Quyền Lộc hoặc thêm Tả Hữu Xương Khúc cũng chủ đại phú quý, tất là bậc lương đống của đất nước.

Gặp Tứ Sát Không Kiếp Kỵ thì không đẹp, có thể làm nghề trái (VDTT chú thích: tức nghề khác thường) hoặc y bốc mệnh tướng.

Cung Dần tốt hơn Thân, cung Dần vận tốt tương đối dài, còn cung Thân thì tiến thoái thăng trầm không ổn định.

Thái Dương Thiên Lương tại Mão dậu, cung Mệnh tất có Thái Âm. Ở Mão tốt hơn ở Dậu, không gặp hung sát chủ cả đời sự nghiệp hưởng phúc. Gặp Lộc Tồn Xương Khúc cát hóa, chủ cự phú hoặc đại quý, nổi danh thế giới. Ở cung Dậu thì bình thường, hậu vận đuối sức, đẹp mà không thực, chủ hư hoa phù ảo, khó được đại phú quý.

Vũ Khúc

Vũ Khúc nhập Miếu, đồng cung với Xương Khúc Phù Bật, chủ võ chức hiển quý, nắm quyền lớn trong quân đội, cục cảnh sát, hoặc đảm nhiệm những công việc quan trọng tại cơ quan tư pháp, bạo lực.

Người bình thường kinh doanh, buôn bán, cũng chủ sự nghiệp phát đạt. Nếu hội Khoa Quyền Lộc, có thể là quan về tài chính, đứng đầu trong giới tài chính, người kinh doanh có thể trở thành tỉ phú, lãnh đạo xí nghiệp thương nghiệp.

Cung Tài Bạch có Vũ Khúc, có không ít người làm việc ở ngân hàng hoặc các bộ môn tài chính khác. Vũ Khúc Miếu Vượng địa nếu không gặp cát tinh cũng chủ sự nghiệp thông đạt, phát triển ổn định từng bước. Vũ Khúc Hóa Lộc, chủ phú quý song toàn. Vũ Khúc Hóa Quyền cực đẹp, hiển thị quyền quý, là nhân vật tay sắt (chú: nắm quyền nghiêm khắc). Vũ Khúc Hóa Kỵ là xấu nhất, sự nghiệp nhiều thị phi, ít nhất cũng một lần đổ vỡ thất bại.

Gặp các sao ác như Dương Đà Hỏa Linh Không Kiếp Đại Hao thì đa mưu nhưng ít thành công, bị tranh chấp khó khăn, nếu tam phương lại không có cát tinh hội hợp thì địa vị bình thường, không luận là quý hiển. Vũ Khúc hãm địa cũng vậy.

Vũ Khúc Thiên Phủ tại Tý Ngọ, cung Mệnh tất có Liêm Trinh. Được sao tốt củng chiếu thì phú quý, là người nhiệt tình với sự nghiệp, thích hợp xử lý ngoại vụ, thích hợp kinh doanh xí nghiệp quy mô lớn.

Đồng cung với Lộc Tồn hoặc Vũ Khúc Hóa Lộc, Hóa Khoa thì sự nghiệp vĩ đại, hoặc thêm Tả Hữu Xương Khúc thì chủ phú quý, thu được cả danh lẫn lợi, nắm quyền lực, đường sự nghiệp hanh thông. Thêm Khôi Việt thì làm việc ở Bộ Tài chính. Thêm các sao ác sát Dương Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì bình thường. Vũ Khúc hóa Kỵ thì sự nghiệp thăng trầm không thuận lợi, người làm quan tất có tai họa về quan.

Vũ Khúc Tham Lang tại Sửu Mùi, cung Mệnh tất là Liêm Trinh Phá Quân. Trong khi làm việc thường có những hành vi vi phạm pháp luật, bất chính, phú quý tất cũng là quan tham ô vô lại hoặc gian thương. Chủ công việc hay biến động, tuổi trẻ thường thăng trầm, không ổn đinh. Được sao cát củng chiếu thì tốt đẹp, kinh doanh có thể thu được lợi lớn. Sợ thêm Sát Kỵ.

Vũ Khúc Thiên Tướng tại Dần Thân (chú: Bản bạch thoại đánh sai thành Thìn Tuất), cung Mệnh tất có Liêm Trinh Thiên Phủ. Thêm cát tinh thì sớm nắm quyền lớn, sự nghiệp hanh thông, chủ quyền quý, tài quan cả 2 đều đẹp.

Vũ Khúc Thất Sát tại Mão Dậu, cung mệnh tất là Liêm Trinh Tham Lang. Sự nghiệp hay biến đổi thăng trầm, xa hương lập thân có thể phát triển. Hợp kinh doanh, làm công việc đầu cơ, hoặc công việc có tính chất mạo hiểm, nguy hiểm. Đồng cung với Lộc Tồn, chủ phú quý. Được sao cát quyền quý, lập công danh. Kình Dương cùng thủ thì có tai họa tù ngục.

Vũ Khúc Phá Quân tại Tị Hợi, cung Mệnh tất là Liêm Trinh Thất Sát. Sự nghiệp có nhiều phức tạp và thay đổi. Thích nhất là Vũ Khúc Hóa Quyền, chủ cả đời quyền quý, Tài Quan đều đẹp. Nếu gặp Thiên Hình, làm quân nhân thì phát đạt. Thêm Quyền Lộc Xương Khúc Tả Hữu thì quý hiển. Nếu không thêm cát tinh thì chủ sự nghiệp bình thường, khó có thành tựu, làm nhân viên bình thường hoặc tiểu thương, hoặc nghề khéo an thân.

Thiên Đồng

Thiên Đồng là phúc tinh, nhập cung sự nghiệp không hoàn mỹ, tính chất cơ bản hợp tự do, không làm việc trong môi trường chịu hạn chế, khó có thể quản lý chỉ huy các thuộc bộ, như làm chức vụ quản lí thì khó có thể phát huy năng lực. Thiên Đồng nhập miếu, văn võ đều được, nếu hội chiếu có Hóa Lộc Hóa Quyền Hóa Khoa thì chủ đại phú đại quý, thiên hạ biết danh tiếng. Nếu Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt đồng cung hoặc gia hội thì sự nghiệp hưng vượng, hay được giúp đỡ, vận khí cực đẹp, chủ thành công và phú quý. Dương Đà Hỏa Linh Không Kiếp đồng cung hoặc gia hội thì đường sự nghiệp tương đối kém, lắm trì trệ không thông, địa vị không cao, là người bình thường. Nếu như Hãm địa lại thêm Tứ Sát Không Kiếp, thì làm việc gì cũng thất bại, không gì là thành công.

Thiên Đồng ở cung Quan Lộc, không ít người làm ở giới truyền thông, giải trí, văn hóa nghệ thuật. Cục Mệnh thành cách, chủ có đại phú quý. Cục mệnh không thành cách mà không có cát tinh thủ chiếu thì cuối cùng vẫn là người bình thường.

Thiên Đồng Thái Âm tại Tý Ngọ, Mệnh vô chính diệu, đối cung có Cự Môn Thái Dương. Hai sao này miếu vượng địa ở Tý, kinh doanh buôn bán hay làm công chức đều tốt, có thể có danh tiếng địa vị, gặp Lộc Tồn thì chủ phú quý. Cung Ngọ thì 2 sao này hãm địa, nếu không có các sao tốt thì khó có phú quý, một đời lao khổ.

Thiên Đồng Cự Môn tại Sửu Mùi, cung Mệnh vô chính diệu, đối cung có Thái Dương Thiên Lương. Hai sao cùng hãm, lúc trẻ sự nghiệp không ổn định, thường hỏng giữa chừng hoặc hay gặp chuyện điều động chuyển việc, trung niên trở ra có thể tự tay lập nghiệp trong gian khổ. Không thêm cát tinh, cát hóa thì cả đời địa vị thấp kém, thành tích có hạn. Bất luận có gặp cát tinh hay không, lòng nhiệt tình tận tâm trong công việc cũng không nhiều.

Thiên Đồng Thiên Lương tại Dần Thân, cung mệnh tất có Thái Âm. Hợp công chức, đảm nhiệm công việc quản lý. Hội Khoa Quyền Lộc thì trong sự nghiệp là người có vận khí đẹp lạ lùng, anh hùng tái thế, đại phú đại quý, nắm quyền lớn trong quân đội chính quyền nhà nước. Tả Hữu Xương Khúc gia hội thì có thể đạt được thành tựu trên chính trị. Nếu gặp Tứ Sát Không Kiếp, là nhân viên kĩ thuật hoặc hợp kinh doanh.

Liêm Trinh

Liêm Trinh là chủ Quan Lộc, nhập cung Quan lộc đều có cơ hội nắm quyền. Nếu không gặp Sát tinh, thì là người coi trọng hiệu quả công việc, có thể phát huy năng lực trác việt, hợp với công việc quản lý.

Nếu gặp Dương Đà Không Kiếp thì sự nghiệp không thuận lợi, thị phi không ngớt, làm chuyện gì cũng khó thành.

Nếu hãm địa lại thêm Sát tinh thì không có công danh, phải đề phòng chuyện thị phi quan chức.

Liêm Trinh Hóa Kỵ và Thất Sát, Tứ Sát, Thiên Hình đồng cung tại cung Quan Lộc thì có họa ngục tù, bức hại chính trị.

Liêm Trinh tại Dần Thân, nhập Miếu, cung Mệnh là Tử Vi Thiên Tướng. Chủ quyền quý võ chức, kinh doanh đại quý, hội chiếu cùng cát tinh thì phú quý song toàn. Liêm Trinh Hóa Lộc hoặc đồng cung với Lộc Tồn thì chủ đại phú đại quý. Hỏa Tinh hoặc Linh Tinh đồng cung thì tuổi trẻ khó thành công lớn, tuổi già vượng phát.

Liêm Trinh Thiên Phủ tại Thìn Tuất, cung Mệnh tất là Tử Vi. Có năng lực quản lí ưu tú, tuổi trẻ sự nghiệp không ổn đinh, trung niên đến nơi khác thì phát triển, có thể thu được thành công ngoài mong đợi. Được nhiều cát tinh tụ chiếu thì văn võ phú quý. Liêm Trinh Hóa Lộc, Võ chức quý hiển, kinh doanh đại phát. Phù Bật Xương Khúc xung chiếu (VDTT chú: Xung chiếu đây chỉ có nghĩa hội họp), thì làm chính trị, có thể thành quan lớn. Liêm Trinh Hóa Kỵ, phú quý đều ít.

Liêm Trinh Tham Lang tại Tị Hợi, cung Mệnh tất là Tử Vi Phá Quân. Là người có kĩ năng giao tiếp, có thể là nhân viên công vụ, nhân viên ngoại giao tiêu thụ, tầng lớp cán bộ, cảnh sát, chủ doanh nghiệp tư nhân. Không ít người là quân nhân. Nếu gặp nhiều cát tinh thì kinh doanh hay làm công chức đều được, có thể phát triển được trong môi trường cạnh tranh hoặc thị phi. Nếu thêm Sát tinh thì chức vị nhỏ, hoặc vì vấn đề với người khác phái mà xảy ra tranh chấp, hoặc hành vi bất chính nên bị phạt. Hóa Kỵ thêm Sát tinh thì chắc chắn ngồi tù.

Liêm Trinh Thiên Tướng tại Tý Ngọ, cung mệnh tất là Tử Vi Thiên Phủ. Hội hợp cát tinh, gia hội Lộc Tồn, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa thì cự phú đại quý. Gặp Tả Hữu Xương Khúc thì văn võ đều tốt, quyền quý có thời.

Kình Dương đồng cung chỉ hợp buôn bán. Hỏa Linh đồng cung tất là tham quan ô lại. Không Kiếp Đồng cung, sự nghiệp ngoài đẹp trong rỗng.

Liêm Trinh Thất Sát tại Sửu Mùi, cung Mệnh tất là Tử Vi Tham Lang. Hợp trong quân đội lập công, nếu có thêm cát tinh thì chủ công danh hiển đạt. Khoa Lộc Quyền hội hợp thì cự phú đại quý. Tả Hữu Xương Khúc đồng cung hoặc gia hội thì văn võ đều tốt, sự nghiệp hưng thịnh.

Liêm Trinh Phá Quân tại Mão Dậu, cung Mệnh tất là Tử Vi Thất Sát. Sự nghiệp có nhiều khó khăn, nếu gia hội cát tinh thì trong gian khổ có thể lập được đại công. Nếu Tả Hữu, Xương Khúc, Lộc Tồn, Hóa Lộc hội hợp thì văn võ đều tốt, sớm nắm uy quyền, chủ phú quý. Kinh doanh cũng phát hoạnh tài đại quý. Nếu không có cát tinh thì phúc không được lâu dài. Thêm sát tinh thì người bình thường.

Thiên Phủ

Thiên Phủ vào cung Quan Lộc chủ cát lợi, chỉ cần không gặp Sát tinh thì nhất định sự nghiệp có thành tựu. Nhập Miếu được nhiều cát tinh thủ chiếu là bậc tài năng văn võ, công danh hiển hách, nếu không làm công chức mà làm thương nghiệp cũng luận là phát đạt. Gia Tứ Sát Không Kiếp thì không đẹp, sự nghiệp nhiều trở ngại thăng trầm và hay tranh chấp, nếu hội chiếu nhiều sát tinh thì chủ nghèo khổ, không nghề nghiệp địa vị đáng nói, chung quy thuộc hạng người bình thường.

Thiên Phủ tại Sửu Mùi, Mão Dậu, gia hội Lộc Tồn Tả Hữu hoặc Xương Khúc, chủ đại phú đại quý.

Thiên Phủ tại Tị Hợi, có Lộc Tồn, Hóa Lộc, Tả Hữu, Xương Khúc, Khôi Việt gia hội thì đại phú đại quý, nếu không gặp cát tinh thì trong sự nghiệp là người tương đối cẩn trọng bảo thủ.

Thái Âm

Sự nghiệp tương đối bình ổn, nhập miếu luận tốt, được Lộc Tồn, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa củng chiếu thì chủ quyền quý, không công hầu tất là vương. Đồng cung hoặc gia hội với Xương Khúc Tả Hữu Khôi Việt thì có thể có địa vị cao, một đời có danh tiếng. Thái Âm nhập cung cung bình nhàn (VDTT chú: Nhàn ý là kém, kiểu Việt Nam “ngồi chơi xơi nước”), hội Xương Khúc Tả Hữu cũng là người quan quý. Thái Âm nhập miếu vượng, Sát tinh ít, có Tả Hữu gia hội, lại hội Lộc Tồn thì có thể vô cùng giàu có trong công thương nghiệp. Thái Âm hãm địa thì đường sự nghiệp không đẹp, làm nhiều mà thành quả ít, nếu lại gặp Tứ Sát Không Kiếp tất là người bình thường.

Thích hợp đảm nhiệm các công việc suy nghĩ tư duy, kế hoạch. Đồng cung với Xương Khúc thì có thể đạt được thành công trong công việc văn hóa, học thuật, công chúng. Nếu như lại gặp Long Trì Phượng Các nữa thì có thể nổi danh trong giới nghệ thuật. Tả Phù Hữu Bật tương hội thì có thể phát triển trong giới chính trị. Cùng Thiên Đồng, Thiên Lương, Thiên Cơ tương hội thì có thể làm công chức hoặc làm việc trong những xí nghiệp lớn. Thái Âm Hóa Lộc, không những sự nghiệp thành công mà còn thu được danh lợi, tài vận rất tốt. Thái Âm Miếu Vượng địa có Hóa Quyền, chủ quan quý, thêm Tả Hữu Xương Khúc thì phú quý xuất chúng. Thái Âm Hóa Khoa, tiếng tăm lẫy lừng, có thể theo đuổi nghệ thuật hoặc học thuật, nghiên cứu khoa học.

Tham Lang

Cách cục khai sáng, sự nghiệp thăng trầm nhiều biến đổi. Không thích hợp với những công việc ổn định, đơn điệu và bình thường. Hay làm những nghề nghiệp không bị thúc bó, có thể biến hóa, giàu tính đầu cơ, mạo hiểm, có rất nhiều mối quan hệ trong giao tiếp, tiệc tùng mà hình thành công việc, có thể kết giao với người quyền quý, quan chức chính phủ.

Nhập Miếu thì sự nghiệp sớm hưng thịnh, có thể đạt được nhiều cơ hội bất ngờ mà thành công. Gặp Hỏa Linh đồng cung, Văn Võ chức quyền quý, đảm nhiệm nhiệm vụ quan trọng, phú quý song toàn. Tam phương tứ chính không có Dương Đà Không Kiếp mà hội Khoa Quyền Lộc thì là nhân vật quan trọng trong giới chính trị hoặc thương gia giàu có. Nếu gặp Tả Hữu Khôi Việt thì sự nghiệp phát triển thuận lợi, cơ hội may mắn nhiều. Tham Lang Bình hòa hoặc Hãm, không có cát tinh đồng cung thì sự nghiệp không bình ổn, làm nhiều mà công lao ít, nếu như tam phương có cát tinh thì có thể phát triển thương nghiệp. Thêm Xương Khúc thì chủ kế hoạch hỗn loạn, chính sự đảo điên. Dương Đà, Không Kiếp đồng thủ, là người bình thường, khó có sự nghiệp, thành công đáng kể.

Cự Môn

Sự nghiệp vất vả, làm các nghề liên quan đến ăn nói, giao thiệp, kế hoạch, nghiên cứu, kĩ năng học thuật v.v… Nhập Miếu Vượng thì sau khi vất vả phấn đấu có thể đạt thành công, được nhiều cát tinh thủ chiếu thì kinh doanh hoặc làm công chức đều có thể nắm quyền, phát đạt. Cự Môn thích nhất Hóa Quyền, là hiện thân của uy quyền, có tài năng phi phàm, lợi cho việc dương danh trong các giới tư pháp, y học, học thuật. Gia hội các cát tinh Lộc Tồn, Hóa Lộc, Hóa Quyền thì chủ đại phú hoặc đại quý. Đồng cung hoặc hội chiếu với Tả Hữu, Xương Khúc thì chủ quý hiển hoặc đạt được thành công trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, văn học nghệ thuật, truyền thông đại chúng, y bốc mệnh tướng.

Cự Môn là Ám tinh, thương gia hay lén lút làm nhiều việc ngầm hoặc kinh doanh không minh bạch, kinh doanh bất hợp pháp, hoặc trốn thuế. Hãm địa thì bôn ba, trong cuộc việc nhiều đối thủ cạnh tranh, khó có ngày thành công, nếu gặp cát tinh thì trung niên trở ra được ổn định. Hãm địa gia Tứ Sát Không Kiếp thì tốn công tốn sức, không chuyện gì thành công. Cự Môn Hóa Kỵ, không hòa thuận với cấp trên, làm việc hay có tranh châp, lời qua tiếng lại, không thuận lợi, phá bại, nếu gặp Tứ Sát Kiếp Không, chủ gặp chuyện quan phi, tố tụng, ngục tù.

Thiên Tướng

Là người phụ tá khá tài năng , sự nghiệp an định, bình ổn ít thay đổi, thường đảm nhận các công việc tại cơ quan công gia, xí nghiệp quy mô lớn, thích hợp với chức phó về hành chính quản lý, thư ký. Không hợp lãnh đạo, hoặc là danh là chính thực là phụ.

Thiên Tướng nhập Miếu, đồng cung hội chiếu với Tả Hữu Xương Khúc thì được người kính trọng, chủ phú quý, kinh doanh hoặc làm công chức đều có thành tựu lớn, có thể có lương cao. Hội chiếu Khoa Quyền Lộc, hợp theo đuổi chính trị, làm quan cao lộc hậu, kinh doanh thì là cự phú. Nếu không có thêm cát tinh người thường cũng chủ sự nghiệp ổn đinh, cuộc sống khá giả. Miếu Vượng gia Sát tinh thì chỉ hợp theo nghề buôn. Thiên Tướng hãm địa, thành bại đa đoan, thêm Sát tinh thì không tốt, chỉ là người bình thường.

Thiên Lương

Là người cẩn thận tỉ mị, giỏi xử lý những vấn đề khó, có thể đảm nhận những chức vụ quan trọng.

Thiên Lương ở cung Ngọ nhập Miếu, hội Phù Bật Khôi Việt, kiêm văn võ, hợp làm chính trị, gặp thêm Khoa Quyền Lộc thì chủ đại quý, là nhân vật quan trọng trong giới chính trị. Đồng cung gia hội với Tả Hữu Xương Khúc thì quý hiển, có thể phát huy trong cơ quan hành chính, hệ thống pháp luật, cơ cấu y liệu, xí nghiệp quy mô lớn. Thiên Lương Hóa Khoa, chủ thanh quý, danh nhiều hơn lợi. Thiên Lương Hóa Lộc thì phú quý. Hóa Quyền, là người có thực quyền, nếu hội Lộc Tồn thì có thể là thương gia giàu có. Nhập Miếu Vượng, nếu không có thêm cát tinh, người thường cũng chủ sự nghiệp bình ổn an định, có thể hưởng cảnh sung túc.

Thiên Lương hãm địa, hội Cát tinh thì cũng không mất phú quý, nếu không gặp cát tinh thì chủ sự nghiệp vất vả bận rộn, thành công nhiều thất bại cũng nhiều. Hội cùng Tứ Sát Không Kiếp thì không có địa vị, công việc khó khăn lao khổ, tai nạn phá hao, khó thành tựu, chỉ là người bình thường.

Thất Sát

Là cách cục khai sáng, không thích hợp với các công việc ổn định, bình thường, thường chọn các công việc tự do, không bị hạn chế, hoặc theo đuổi các công việc có tính mạo hiểm, hay thay đổi, có tính đầu cơ. Tuổi trẻ sự nghiệp hay thăng trầm thay đổi, thiếu sự an định, trung niên trở ra thì có thể thuận lợi. Nên tha hương xuất ngoại, có thể có cơ hội thành công. Đại đa số tay trắng mà làm nên gia sản, từ không thành có.

Thất Sát nhập miếu thì đắc cách. Nếu gặp nhiều sao tốt thủ chiếu thì quyền quý không ít. Hợp võ không lợi văn, hội cát tinh thì nổi bật trong giới quân đội cảnh sát, hoặc buôn bán làm ông chủ, nếu kinh doanh thương nghiệp thì có thể giàu có. Thất Sát đồng cung hội chiếu với Tả Hữu, Xương Khúc, Khôi Việt chủ quyền bính, nắm quyền sinh sát, sự nghiệp hưng thịnh.

Đồng cung với Lộc Tồn thì phú quý song toàn. Gia hội Lộc Tồn, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa thì anh hùng cái thế, vang danh thế giới. Thất Sát Miếu Vượng địa đồng cung với Hỏa Linh thì chủ võ chức uy phong, nhưng thường gặp nguy hiểm, thị phi, kinh doanh có thể giàu có nhưng hay lên voi xuống chó.

Thất Sát Bình nhàn lại gia hội Tứ Sát Không Kiếp, thì tầm thường, nếu lại đồng cung hoặc hội Hóa Kỵ chủ họa ngục tù.

Phá Quân

Cách cục khai sáng. Một đời sự nghiệp thăng trầm, gian khổ, chắc chắn không thuận lợi. Hợp những công việc mạo hiểm, công nghiệp, thương nghiệp. Nhập Miếu có Võ chức lớn, được nhiều cát tinh thủ chiếu thì phú quý không ít. Lộc Tồn, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa cùng chiếu thì là trọng thần quốc gia. Đồng cung hội chiếu với Tả Hữu, Khôi Việt thì có năng lực quản trị, kinh doanh hay làm công đều được, phú quý song toàn. Nếu cát tinh ít thì không quý, chỉ là nhân viên bình thường, hoặc làm kinh doanh cá thể. Đồng cung Văn Xương, Văn Khúc, sự nghiệp vất vả không thuận lợi.

Đồng cung với Dương Đà Hỏa Linh Không Kiếp Hóa Kỵ thì chủ vất vả, trở ngại, thị phi, phá bại, đa mưu mà ít khi thành, sự nghiệp nhất định gặp phải nhiều lần thất bại lớn, kỵ đầu tư mạo hiểm, hợp kĩ nghệ lập thân. Cung Mệnh nếu không có thêm Cát tinh, cung Quan Lộc Phá Quân đồng cung với Dương Đà thì là người nợ nần, làm gì cũng khó thành.

Văn Xương, Văn Khúc

Hai sao nhập Miếu, có danh tiếng địa vị, gặp Thái Dương, Thái Âm đồng cung hội chiếu thì chủ quyền quý, chức vị cấp tỉnh bộ. Gặp nhiều sao tốt như Tử Vi, Thiên Phủ, Vũ Khúc, Hóa Khoa, Tả Phù Hữu Bật thì là người tài năng văn võ, phú quý bất phàm. Hai sao này cùng với cát tinh đồng thủ thì tăng may mắn tốt đẹp, kỵ gặp Phá Quân. Nếu Hãm địa thì không đẹp, thích hợp phát triển ở các phương diện văn hóa, học thuật, nghệ thuật, tôn giáo, chiêm bốc.

Tả Phù, Hữu Bật

Có tài năng quản lý ưu việt, làm việc ổn định chắc chắn, công việc thuận lợi, có thể được đại chúng cổ vũ. Kinh Doanh hoặc làm công chức đều tốt, nếu được cát tinh đồng cung càng tốt, có các sao tốt Tử Vi Thiên Phủ củng chiếu thì văn võ đều giỏi, Tài Quan đều đẹp. Đồng cung với Thiên Đồng, Văn Xương thì là kỳ cách văn chương, nổi danh thiên hạ. Gia Tứ Sát thì thành bại bất nhất, nếu gặp Không Kiếp thì chủ bị giáng chức.

Thiên Khôi, Thiên Việt

Trong công việc luôn gặp quý nhân, đặc biệt nhận được sự giúp đỡ của cấp trên, bậc tôn trưởng, gặp khó khăn gì cũng từ hung thành cát. Nếu được nhiều cát tinh thủ chiếu thì chủ quý. Gia Tứ Sát thì thành bại thăng trầm, gia Không Kiếp Hình Kỵ là người bình thường.

Hóa Lộc

Là điềm đại cát, là hiện thân của thành công, thịnh vượng, uy quyền, phát đạt, thuận lợi. Một đời sự nghiệp vận khí cực đẹp, có thể duy trì thịnh vượng dài lâu không suy thoái, ít gặp trở ngại hoặc bất toại ý, đồng thời biết cách sử dụng tiền bạc, sự nghiệp phát triển, có thể đạt được thành tựu tương đối cao về tài phú, địa vị, danh tiếng. Sao nào hóa Lộc ở cung Quan Lộc thì dấu hiệu may mắn tốt đẹp của sao ấy tăng gấp bội. Nếu có Lộc Tồn, Thiên mã, Hóa Quyền, Hóa Khoa gia hội thì đại phú đại quý.

Hóa Quyền

Là điềm đại cát, là hiện thân của thành công, thịnh vượng, uy quyền, phát đạt, thuận lợi. Một đời sự nghiệp vận khí cực đẹp, là người làm việc cẩn trọng, giỏi về kế hoạch, làm kinh doanh, ít khi thất bại, năng lực quản lí mạnh, có thể có chức vị cao. Sao nào hóa Quyền ở cung Quan Lộc thì tín hiệu tốt của sao đó tăng gấp bội. Gia hội Cự Môn, Vũ Khúc, Hóa Khoa, Hóa Lộc thì đẹp không tả nổi, có thể phát triển ngoài mong đợi, quan vận hanh thông. Gia hội Hóa Lộc, Hóa Khoa thì là bậc lương đống quốc gia, chắc chắn có quý.

Hóa Khoa

Là điềm đại cát, là hiện thân của thành công, thịnh vượng, phát đạt, thuận lợi, danh tiếng. Một đời sự nghiệp vận khí cực đẹp. Là người có học thức chuyên môn hết sức ưu tú, với công việc có năng lực tính toán tốt, có tầm nhìn tốt, dễ nhận được sự đánh giá tốt của cấp trên, đồng nghiệp và người ngoài. Sao nào hóa Khoa ở cung Quan Lộc thì tín hiệu tốt của sao ấy tăng gấp bội. Là người có thể danh ghi bảng vàng. Gia hội Hóa Lộc, Hóa Quyền và Xương Khúc thì chắc chắn quý hiển. Hội hợp với Thiên Khôi, Thiên Việt thì nổi danh thiên hạ. Hóa Khoa và Dương Đà, Không Vong, Hóa Kỵ đồng cung là hãm, là có tài năng nhưng khó có thể phát huy.

Hóa Kỵ

Là điềm không tốt, công việc hay gặp phải sự cố, trắc trở, thất bại, phá hoại, chắc chắn không thể thuận lợi. Nếu được nhiều cát tinh nhập Miếu Vượng, cát hóa thì có thể hóa giải nhưng cũng không thể khiến những bất lợi do Hóa Kỵ mang lại biến mất hẳn được.

Lộc Tồn

Là điềm đại cát, trong công việc có thể nhận được sự trợ giúp về vật chất, là người giỏi quản lý, sử dụng tiền bạc, không thích hoang phí, dễ tích lũy tiền bạc, công việc phát triển thuận lợi, có thể đảm nhận chức vị cao, hoặc kinh doanh xí nghiệp quy mô lớn. Lộc Tồn độc thủ, thường làm trong bộ Tài chính, Ngân hàng, hoặc làm các công việc quản lý tài chính, là quan chức về tài phú. Lộc Tồn nếu được nhiều cát tinh miếu vượng thủ chiếu thì tất là bậc tài năng văn võ, lương đống quốc gia, Tài Quan đều đẹp. Gia Hỏa Linh Không Kiếp thì thăng trầm, tốt xấu bất nhất, đặc biệt kỵ gặp Không Kiếp.

Kình Dương, Đà La

Điềm hung, một đời sự nghiệp nhiều trắc trở, hay thay đổi, không thuận lợi, thường gặp phiền phức, dễ đối lập với cấp trên, gây phản cảm với đồng nghiệp, người dưới mà bị ép từ chức hoặc mất việc, hoặc thu nhập thấp. Nhập Miếu thì lợi cho Võ chức hoặc kinh doanh, cũng có thể làm những ngành có tính thay đổi, nguy hiểm hoặc tiêu hao thể lực, không lợi cho các công việc Văn chức. Nếu được nhiều cát tinh thủ chiếu thì chủ có quyền quý.

Hai sao trên hãm địa thì bôn ba vất vả qua ngày, trong sự nghiệp thường gặp tổn hại, sự cố, làm công việc bình thường, địa vị không cao, chuyển chức, không an định, thu nhập ít, môi trường làm việc khắc nghiệt, một đời làm nhiều mà thành ít, hãm địa gia cát tinh thì chỉ có hư danh, khó có thể phát triển mạnh. Gia Hỏa Linh Không Kiếp chủ người bình thường, nghèo khó.

Hỏa tinh, Linh tinh

Điềm không tốt, công việc làm nhiều thành ít, bị đối xử bạc bẽo, môi trường khắc nghiệt, tuy rằng có công việc nhưng khó dài lâu.

Hai sao này nhập miếu thì tuổi trẻ thành bại thất thường, tuổi già công việc toại ý. Hội Tử Vi, Tham lang miếu vượng thì chủ cát lợi. Nhập miếu hội nhiều cát tinh thủ chiếu thì chủ quyền quý hiển hách.

Hai sao này Hãm địa thì cả đời địa vị thấp kém, sự nghiệp không an định, hay bị chuyển chức, khó được dùng đúng chỗ, thường không hài lòng với công việc hiện tại. Gặp Dương Đà Không Kiếp thì một đời khốn đốn, khó khăn, nhiều phong ba.

Địa Kiếp, Địa Không

Điềm hung về sự nghiệp hư không, một đời công việc không ổn định, thường thay đổi công việc, việc làm chẳng có ít nhiều lợi ích gì đáng nói, thường gặp trở ngại hoặc thất bại, khó có thể thành đại sự đại nghiệp. Mệnh có cát tinh mà gặp Không Kiếp dù có phú quý nhất thời cũng nhất định có thất bại tương đối lớn, hoặc là tiền tài bị phá to, hoặc là đắc tội với cấp trên mà bị trách phạt, hoặc học nhằm cái không dùng được nên khó phát huy. Xấu nhất là 2 sao này đồng cung tại cung Quan Lộc hoặc cùng tại tam phương của cung mệnh. Nếu chỉ gặp một trong hai sao mà trong cung có chính tinh Miếu Vượng thì độ hung tương đối nhỏ.

Kết thúc phần “Cung Quan Lộc”.

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Tám 2, 2012 in Nghiên cứu Tử Vi

 

LSDN – TÍNH CHẤT CƠ BẢN CỦA PHỤ TINH

Tác giả: AnKhoa
Nguồn: lysodoanhnhan.com

Về tính chất cơ bản của những phụ tinh quan trọng. Bao gồm:

– Trợ tinh: Tả Hữu, Khôi Việt
– Tá tinh: Xương Khúc, Lộc Mã
– Sát tinh: Kình Đà, Hỏa Linh, Không Kiếp
– Tứ hóa: Lộc Quyền Khoa Kỵ

Văn Xương – Văn Khúc

Văn Xương (tức văn quế) thuộc Kim, Nam Đẩu, chủ khoa giáp, là sao đỗ đầu văn. Văn Khúc (tức văn hoa) thuộc Thủy, Bắc Đẩu, sao chủ khoa giáp. Hai sao này nhập miếu ở Tỵ Dậu Sửu, Dần Ngọ Tuất lạc hãm.

Người có Văn Xương hay Văn Khúc nhập Mệnh cung, mày thanh mắt đẹp, nho nhã, có phong thái của danh sĩ, học rộng nhớ nhiều, thông minh ham học, có tinh thần nghiên cứu, cơ biến dị thường, có thể tranh biện, cũng dễ dàng thành công, thân vinh quý hiển, một đời phúc thọ song toàn, dù bị Tứ Sát xung phá, cũng không hạ tiện.

Xương Khúc nhập Mệnh là người có hứng thú ưa thích văn học nghệ thuật như thơ ca, tản văn, âm nhạc, hội họa, nhảy múa, diễn tấu, học thuật, kĩ nghệ… khả năng biểu đạt cao. Văn Khúc còn mang ý nghĩa đào hoa, Văn Xương thì không.

Văn Xương chủ người đoan trang thanh tú, kiến thức rộng, đầu óc mẫn thiệp, phúc thọ đều có. Văn Xương thủ Mệnh, hãm địa hội nhiều hung tinh, cũng chủ mồm mép, cơ xảo, bản lĩnh hơn người.

Văn Khúc nhập Mệnh, có duyên với y học chiêm tinh tướng học, tôn giáo, huyền học, tâm lý học, nếu có Thái Âm, Tham Lang, Thiên Đồng đồng cung thì càng rõ ràng. Vì vậy sách có viết: “Văn Khúc Thái Âm đồng cung, cửu lưu thuật sĩ”.

Văn Khúc Văn Xương, là người đa học đa năng, nếu như một trong hai sao hãm địa đơn thủ Mệnh Thân, lại hội hung tinh Dương Đà Hỏa Linh Địa Kiếp đồng cung hay xung phá thì giỏi mồm mép ngụy biện, thường tranh cãi với người khác, có chết cũng không chịu thừa nhận lỗi sai của mình, hoặc tự cho mình thanh cao, câm hận thế tục, đa phần là những người có tài nhưng không gặp thơi, hào nhoáng mà không thực, danh lợi đều chỉ là hư ảo. Vì vậy sách có viết: “Xương Khúc hãm cung hung sát phá, hư dự chi long”.

Văn Xương Văn Khúc, nữ mệnh không hợp, tuy thông minh tài hoa, cơ xảo lanh lợi, nhưng thủy tính dương hoa, dễ thu hút đám ong bướm, đào hoa, vì vậy sách có viết: “Nữ nhân Xương Khúc, thông minh phú quý chỉ đa dâm”, “Dương phi háo sắc, tam hợp Văn Xương Văn Khúc”.

Thiên Khôi – Thiên Việt

Thiên Khôi Thiên Việt thuộc Hỏa, nam đẩu trợ tinh. Hai sao này là sao quý nhân, Thiên Khôi là trú quý, tức Thiên Ất quý nhân; Thiên Việt là dạ quý, tức Ngọc Đường quý nhân. Thiên Khôi Thiên Việt không phân mạnh yếu, là sao thượng cát, bất luận ở cung nào đều có tác dụng tốt đẹp.

Nếu Mệnh Thân có sao này, chủ thông minh tài trí, vẻ ngoài uy nghi, xinh đẹp thanh bạch, tính cách nhân từ, khí chất nhã nhặn thanh cao, hòa hợp với mọi người. Nam thì anh tuấn, nữ thì xinh đẹp đoan trang, một đời tất hay được quý nhân giúp đỡ. Một trong hai sao Khôi Việt thủ Mệnh cung, thân hình hơi gầy, mặt tròn, cằm nhọn. Khôi Việt ở Mệnh Thân, tất người ham học, càng được nhiều cát tinh đồng cung, tam hợp nhiều cát tinh thủ chiếu thì thuận lợi lớn cho thi cử, tuổi nhỏ đã đỗ đạt khoa cử. Hội Hung Kỵ, không là tú tài văn chương thì cũng là trò cưng của thầy. Nói chung hai sao này, nếu nhập Mệnh Thân cung, tuy không phú quý, cũng chủ thông minh, vẻ ngoài ổn trọng, được người khác tôn trọng kính nể.

Nữ mệnh Khôi Việt thủ Mệnh, thường được sự trọ giúp của quý nhân, trong đó đặc biệt là sự giúp đỡ của người khác phái. Thiên Việt có mang sắc thái đào hoa, còn Thiên Khôi thì không.

Khôi Việt Phụ Bật là phúc thọ, các sao trên ở Mệnh Thân cung, phúc thọ song toàn.

Tả Phụ – Hữu Bật

Hai sao trên đều thuộc Thổ, Nam Bắc đẩu, Thiện tinh.

Hai sao này không phân mạnh yếu miếu hãm, bất luận ở cung nào đều có tác dụng tốt đẹp, vào cung nào giáng phúc cung đó, nhập tứ mộ thì đặc biệt tốt. Người sinh tháng 4, Tả Phụ Hữu Bật đồng cung tại Mùi; người sinh tháng 10 đồng cung tại Sửu; người sinh giữa tháng 7, xung chiếu ở cung Thìn Tuất; người sinh tháng 6, Tả Hữu ở hai cung Tỵ Dậu hội chiếu; người sinh tháng 8 và tháng 12, Tả Hữu ở hai cung Hợi Mão hội chiếu.

Nhập Mệnh thì dung mạo đoan trang thanh tú, sắc mặt trắng vàng, mặt tròn dài, thân hình trung bình hay hơi cao, không béo không gầy. Là người phúc hậu, nhân từ chính trực, hào phóng thân thiện, tấm lòng rộng lượng, khoan dung. Làm việc gì cũng có trật tự, ổn trọng cẩn thận, tính kế hoạch cao. Tính hay giúp người, thích làm việc thiện, trượng nghĩa, một đời hay được quý nhân phù trợ, mà nhận được sự giúp đỡ của người khác phái nhiều.

Nữ mệnh hội cát tinh, vượng phu ích tử.

Kình Dương

Kình Dương còn có tên là “yểu thọ sát”, thuộc kim, Bắc Đầu phù tinh, hóa khí là Hình. Kình Dương là một trong Tứ Sát, cũng là một hung tinh. Tại Tỵ Ngọ Mão Dậu hãm địa, Thìn Tuất Sửu Mùi nhập miếu.

Thủ Thân Mệnh, tính tình thô bạo, cơ mưu xảo trá, thích tranh đấu tàn nhẫn, coi tình thân bạc như vôi, trở mặt lấy ân báo oán. Nhập miếu, tính cương quả quyết, chủ quyền quý. Cư Tý Ngọ Mão Dậu hãm địa, tức tác họa tai ương, hình khắc thậm tệ. Kình Dương nhập Mệnh, Thân cao thể cường tráng, phá tướng, đầu và tứ chi có thương tích, nhập miếu thì béo tốt, hãm địa phá tướng nặng, hoặc mắt mù, hoặc mặt có sẹo hay đốm. Kình Dương nhập miếu, chủ hoạnh thành hoạnh phá, đa phần thường thiếu chân thành, tính tham lam giả dối, hết sức tính toán, lấy oán báo ân, tính gấp gáp, to gan lớn mật, thích chuốc thị phi hoặc có xung đột với người thân bạn bè, thích đi vào chỗ nguy hiểm, tâm lý phản kháng mạnh, có khuynh hướng phạm tội.

Nữ mệnh nhập miếu hội cát tinh quyền quý, tuy nhiên không được hoàn mỹ, hãm địa khắc chồng con, cô hình, phá tướng hạ tiện.

Đà La

Đà La còn có tên là “mã tảo sát”, thuộc Kim, Bắc Đầu phù tinh, hóa khí là Kỵ. Đà La là một trong Tứ Sát, cũng là một hung tinh. Tại Dần Thân Tỵ Hợi lạc hãm, Thìn Tuất Sửu Mùi nhập miếu.

Thủ Thân Mệnh, hành động suy nghĩ bất chính, lắm khi nước mắt rơi trong thầm lặng, tính cương uy mãnh, hành sự không dứt khoát, có đầu không có đuôi, hoạnh thành hoạnh phá, phiêu đãng bất định, không là dân bản xứ. Đà La nhập Mệnh, Thân hình cường tráng, mặt vuông tròn, hai gò má khá cao, nhập miếu đa phần béo, lạc hãm thì mặt có vết thương, răng yếu. Tính tình giảo hoạt, giỏi tính toán, đa nghi. Người có Đà La nhập Mệnh, đa phần tâm thuật bất chính, bôn ba khắp nơi. Thích giở trò xảo trá, có tâm ý phản kháng, lời lẽ khoa trương, có thói quen dọa gạt người khác.

Nữ mệnh Đà La, nội tâm tàn nhẫn vẻ ngoài giả dối, xúc phạm chồng khắc con, không thủ đạo làm vợ.

Địa Không – Địa Kiếp

Hai sao trên thuộc Hỏa, Địa Kiếp cũng là thần cướp bóc, Địa Không là thần không vong, đều thuộc hung tinh. Hai sao trên tính chất và chủng loại giống nhau, chủ họa không chủ phúc, chủ khổ không chủ vinh, trong 12 cung chỗ nào cũng hung.

Không Kiếp nhập Mệnh, tác sự hư không, không theo chính đạo, thành bại đa đoan. Một đời làm nhiều mà thành công ít, chuyện gì cũng bỏ dở giữa chừng, hoặc mỗi lần sắp thành công thì lại thất bại, chưa xong việc mà thân đã chết trước, vì vậy sách có viết: “Không Kiếp vi sầu tối hại nhân, trí anh hùng ngộ nhất sinh”.

Trong sự nghiệp, có tư tưởng chây lười và tiêu cực, rất dễ dàng từ bỏ lợi ích của mình, lấy cái tốt nhường cho người khác. Kiếp Không hai sao này tối bất lợi cho tiền tài, thủ Mệnh cung, tài vận không tốt, cả đời không tụ tài, có khuynh hướng lãng phí ném tiền qua cửa sổ. Tâm lý tiêu cực lười hoạt động, thường có trạng thái bi quan không như ý, hoặc hơi có dấu hiệu thần kinh, suy nghĩ quá nhiều, trong xử lý công việc thì rõ ràng hợp lý, lời lẽ có lý nhưng một đời làm nhiều nhưng thành công ít, dễ mặc sai lầm hoặc bỏ qua cơ hội, nhưng rất khó thuận lợi để đạt được lý tưởng của bản thân.

Không Kiếp ở Mệnh, đại diện cho tư tưởng không linh hư vô, dễ tiếp cận với các sự vật triết học, huyền học, thần học, tốn giáo. Nếu như có cát tinh thì thích những nơi yên tĩnh, hay tư duy, phản ứng nhanh, là người có tư tưởng và lý luận vượt qua quy chuẩn thông thường, là nhà không tưởng thiên tài, nhà học vấn, nhà thần học, nhà phát minh. Có sở thích với những sự vật thần bí, có khuynh hướng nghiên cứu tôn giáo, triết học, thần bí học, chiêm bậc học, khí công học… ở những phương diện này rất có duyên, nhưng người này thường vui đùa không bền chí, hoặc vị tín ngưỡng hay những mê muội của bản thân làm sai lầm một đời, sản sinh tiêu cực, bi quan thậm chí là sai lệch về nhân sinh quan.

Người có Không Kiếp nhập Mệnh, là người trong cuộc sống thường nhật khá lười nhác, không thích làm việc nhà, làm việc không sắp xếp hợp lý, thường vứt đồ đạc của mình lung tung, sau đó lại bỏ thời gian ra tìm kiếm khắp nơi.

Nữ mệnh có một trong hai sao Không Kiếp đơn thủ Mệnh cung hoặc hai sao đồng cung nhập Mệnh, bất luận hội chiếu sao gì, về mặt tình cảm tất có khúc triết hay tranh cãi.

Hỏa Tinh

Là một “Sát thần”, thuộc Hỏa, Nam Đẩu phù tinh. Hỏa tinh là một trong Tứ Sát, cũng là hung tinh. Cư Dần Ngọ Tuất là nhập miếu, cư Tỵ Dậu Sửu là đắc địa, cư Hợi Mão Mùi là ích lợi, cư Thân Tý Thìn là hãm địa.

Hỏa tinh nhập Mệnh, sắc mặt đỏ vàng, mắt to, mặt tròn dài, thân hình trung bình, khá cường tráng. Là người tính tình cương cường xuất chúng, táo bạo hấp tấp, ngoan cố, tự cho mình đúng, tâm địa cay độc, răng miệng tứ chi có thương tích, tàn nhang hoặc có sẹo, râu tóc có chỗ khác thường, ví dụ như tóc nâu đỏ hay tóc xoăn. Nhập 12 hai cung đều không luận là tốt, duy nhập miếu ở cung Tật Ách thì thân thể cường tráng ít bệnh. Đồng cung với Tham Lang miếu vượng nhập Mệnh, chủ có ngày lập công, võ chức quý hiển, kinh doanh hoạnh phát. Hỏa Linh tuy nhập miếu thủ Mệnh, cũng có điều không thuận lợi, thành bại thăng trầm là khó tránh, nếu nhạp cung hãm địa thì hình khắc nghiêm trọng, khắc hại lục thân, dễ rước kiện tung tai họa bất ngờ, có bệnh nặng trong người.

Nữ mệnh Hỏa Tinh, tính cách cương cường, sôi nổi hướng ngoại, dám ăn nói. Hỏa Tinh miếu vượng lại có cát tinh miếu vượng đồng thủ, vượng phu ích tử, là người vợ trinh liệt. Hãm địa thủ Mệnh hoặc đồng cung bới chính tinh lạc hãm, tâm địa thâm độc, lòng dạ xấu xa vẻ ngoài giả dối, xúc phạm chồng khắc con, không thủ phận làm vợ, nhiều thị phi, không trinh khiết.

Linh Tinh

Còn có tên khác là “Sát thần”, thuộc Hỏa, Nam Đẩu phù tinh. Linh Tinh là một trong Tứ Sát, cũng là hung tinh. Cư Dần Ngọ Tuất là nhập miếu, cư Tỵ Dậu Sửu là đắc địa, cư Hợi Mão Mùi là lợi ích, cư Thân Tý Thìn là hãm địa.

Linh Tinh nhập Mệnh, sắc mặt vàng xanh, mặt và người không phù hợp, có chỗ khác lạ kì quái. Là người tính tình cương cường xuất chúng, hấp tấp táo bạo, ngoan cố, tự cho mình là đúng, tâm địa cay độc, lòng đố kỵ lớn, nói chuyện âm thấp, trầm hay khàn, mọi chuyện không bàn chuyện cá nhân, hiểm ác âm mưu, mặt đầu tay chân có vết thương, mặt tàn nhang. Nhập 12 hai cung đều không luận là tốt, riêng cư cung Tật Ách nhập miếu thì luận là thân thể cường tráng ít bệnh. Linh Tinh và Tham Lang miếu vượng nhập Mệnh, có ngày lập công, võ chức quý hiển, kinh doanh hoạnh phát. Tuy nhập đất miếu vượng thủ Mệnh cũng có chỗ bất lợi, thành bại thăng trầm là khó tránh, nhập cung hãm địa, khắc hại lục thân, dễ chuốc tai họa bất ngờ kiện cáo, có bệnh nặng trong người.

Nữ mệnh tính tình cương cường, sôi nổi hướng ngoại, phản lục thân, hình thương chồng con, nhập miếu hội cát tinh thì đầy đủ, lạc hãm thì không trinh khiết, nghèo khó bần tiện.

Lộc Tồn

Lộc Tồn thuộc Thổ, Bắc Đẩu đệ tam tinh, chủ người chức tước cao quý, nắm quyền quản về tuổi thọ. Lộc Tồn là sao đại cát, ở 12 hai cung đều luận là phúc, có chức năng chế hóa giải tai ách. Nhập Mệnh Thân cung, chủ người từ bi phúc hậu, hòa nhã dễ gần, dung mạo chín chắn, thành thật đáng tin, thông minh cương trực, có cơ biến, đa học đa năng, hành sự ổn trọng, nhưng có khuynh hướng hơi bị động. Có quan niệm kinh tế rất mạnh, bản tính tiết kiệm, không thích lãng phí, một đời tài vận khá tốt. Mệnh có sao này, chủ có phú quý, cũng có danh tiếng.

Nữ mệnh Lộc Tồn tọa Mệnh cung, thanh tú xinh đẹp, giỏi giang có thành tựu, giàu có, có thể giữ tiền, có chí quân tử.

Lộc Tồn thủ Mệnh, hỉ đồng cung với Tử Vi, Thiên Tướng, Thiên Phủ, Thái Dương, Thái Âm, Thiên Đồng, Thiên Lương, Vũ Khúc, chủ phú quý, là thượng cách Lộc Tồn, chính tinh miếu vượng thì càng đẹp, chính tinh lạc hãm thì không đẹp.

Thiên Mã

Sao này có người khởi theo tháng sinh, người sinh tháng Dần Ngọ Tuất Mã ở Thân, người sinh tháng Thân Tý Thìn Mã ở Dần, người sinh tháng Hợi Mão Mùi Mã ở Tỵ, người sinh tháng Tỵ Dậu Sửu Mã ở Hợi, cách dựa vào tháng sinh này đều lấy mùng một là tháng đó, không luận đến tiết khí. Có người khởi theo niên chi năm sinh, người sinh năm Dần Ngọ Tuất Mã ở Thân, sinh năm Thân Tý Thìn Mã ở Dần, sinh năm Hợi Mão Mùi Mã ở Tỵ, sinh năm Tỵ Dậu Sửu Mã ở Hợi. Hai phương pháp này đều đúng, cuốn “Tử Vi đẩu số toàn thư” của Trần Đoàn là dựa theo cách khởi niên chi, là một sao “tuế dịch” trong các sao về năm sinh.

Thiên Mã thuộc Hỏa, tại số chủ binh sĩ. Lâm mệnh thân cung, gọi là dịch mã, chủ người tính tình hoạt bát, hiếu động, một đời thích bôn ba và di động, thường ra ngoài du lịch, công tác, chuyển nhà, chuyển việc… cư cung Thiên Di cũng vậy, đều chủ sẽ đi lại khắp nơi, rời xa quê hương để mưu sự phát triển. Nhập mệnh, hỉ Lộc Tồn, Tử Vi, Thiên Phủ, Văn Xương, Văn Khúc thủ chiếu thì tốt.

Hóa Lộc

Hóa Lộc thuộc Thổ, là thần phúc đức, hỉ gặp Lộc Tồn. Nhập miếu ở Dần Thân, tác dụng tốt đẹp rất lớn, lạc hãm ở cung Tý Ngọ Mão Dậu, tác dụng tốt đẹp khá nhỏ. Nhập Mệnh, là người hiền hòa, giỏi xã giao, nhân duyên tốt, tính tình hào phóng, vui vẻ hài hước, ở ngoài được người khác yêu mến, cả đời hưởng phúc. Hỉ nhập Mệnh, Thân, Quan, Tài, Di cung, chủ phú quý, thứ đến là nhập cung Phúc Đức, Điền Trạch.

Bất kể chính tinh nào hóa Lộc, tác dụng thuận lợi tăng gấp nhiều lần, đặc biệt hỉ Thái Dương, Vũ Khúc, Liêm Trinh, Thái Âm, Tham Lang, Phá Quân Hóa Lộc. Hóa Lộc thủ Mệnh Thân và quan lộc cung, Khoa Quyền tương phùng, tất làm quan to, kinh doanh cũng có thể trở thành phú ông.

Hóa Quyền

Hóa Quyền thuộc Mộc, là thần nắm quyền sinh sát, nhập miếu ở cung Sửu, không có hãm địa. Nhập Mệnh cung, chủ người tính tình ngoan cố, coi trọng quy tắc đạo đức, hành sự ổn trọng, tính nguyên tắc cao, có năng lực thống trị lãnh đạo rất tốt, kiên cường bất khuất, chuyện gì cũng không dễ dàng chấp nhận thất bại, tính tình kì quái, đi đến đâu cũng được mọi người kính trọng khâm phục, dễ được người khác tán thưởng. Hỉ nhập Mệnh Thân cung, Di cung, Quan Lộc, Tài Bạch cung, chủ có quyền thế. Hỉ hội Vũ Khúc, Cự Môn, tất làm đại sự. Sao này ở Mệnh, chuyên chủ quyền thế.

Nữ mệnh Mệnh có Hóa Quyền, trong ngoài vừa ý, hội cát tinh có thể là bậc quý phu nhân.

Hóa Khoa

Hóa Khoa thuộc Thủy, đứng đầu trong thi cử, là thần về văn mặc, hỉ hội Khôi Việt. Nhập miếu vượng ở Sữu Ngọ Thân, hãm ở đất Tuần Không, Triệt Không, Địa Kiếp, Địa Không, Kình Dương, Đà La, Nhật Nguyệt hãm địa. Nhập Mệnh Thân cung, chủ người thông minh ham học, khẩu tài lưu loát, có tài hoa về phương diện ngôn ngữ, văn chương, học tập ưu tú, được đánh giá cao, một đời dễ nổi tiếng. Thủ Thân Mệnh, Quyền Lộc tương phùng, thông minh. Nếu gặp ác tinh, cũng là tú tài văn chương, có thể là giáo viên. Hóa Khoa hỉ nhập Mệnh, Thân, Di cung. Cư Tài Bạch cung, Quan Lộc cung cũng tốt.

Nữ mệnh cát tinh củng chiếu, có thể là quý phu nhân, dù Tứ Sát xung phá, cũng chủ phú quý, không có sát tinh hội chiếu thì dịu dàng thanh tú.

Hóa Kỵ

Hóa Kỵ thuộc Thủy, là sao kế đô, là đa quản chi thần, cũng là một hung tinh, nhập miếu ở Tý Sửu, lạc hãm ở Dần Ngọ Tuất Tỵ Hợi, có thể căn cứ vào sự khác nhau giữa chính tinh trong cung mà có tác dụng khác biệt. Hóa Kỵ nhập mệnh, là người thích suy nghĩ vào ngõ cụt, có xu hướng ngoan cố, cá tính mạnh, thích đố kỵ, hay đa nghi, thích quản chuyện không đâu, quan hệ xã hội không tốt, thường có xung đột với người khác, làm việc khi sắp thành thì lại thất bại.

Hóa Kỵ là sao bất hạnh, thường dẫn đến thất bại, hay gặp các tai họa như không vừa ý toại lòng, thất tình, thất nghiệp, phá sản, xung đột, tranh đấu, bệnh tật, thương tích, làm hỏng, thủ Thân Mệnh, một đời không thuận, hay rước thị phi. Trừ một số trường hợp nhỏ, nhập 12 hai cung thì đâu đâu cũng là hoa, có ý nghĩa phá hoại, duy gặp cát tinh nhập miếu thì có thể giảm bớt cái hung, nếu hội chiếu với hung tinh mà không gặp cát tinh thì không lường trước được tai họa.

Nữ mệnh Hóa Kỵ nhập Mệnh Thân cung, lắm mồm, tính tình lanh lợi. Không hội cát tinh thì một đời vật chất khó khăn, chủ nghèo hèn. Hội hung tinh Hóa Kỵ họa nặng, nhiều cát tinh hội thì tai họa khá nhẹ.

Tứ Hóa vốn là hóa khí của sao, bao gồm 14 chính tinh và 4 trung tinh quan trọng Tả Hữu, Xương Khúc. Nên, Tứ Hóa không được định nghĩa là các sao đơn lẻ, độc lập. Vì vậy, khi nghiên cứu Tứ Hóa rất quan trọng là xem đó là hóa khí của sao nào, mà có những tính chất khác nhau, ví dụ Thiên Cơ hóa Lộc tính chất khác với Phá Quân hóa Lộc. Về phần này, chúng tôi sẽ có một bài viết riêng.

Thiên Hình

Thiên Hình thuộc Hỏa, là một hung tinh, chủ hình yểu cô khắc, hợp nam không hợp nữ, lợi võ không lợi văn. Nếu nhập miếu thì là thiên hỉ thần, tốt đẹp, hỉ đồng cung cùng Văn Xương, Văn Khúc, Hóa Khoa. Thiên hình cư Dần Mão Dậu Tuất cung là nhập miếu, còn lại là hãm địa.

Thiên Hình thủ thân mệnh, tính tình cương cường cố chấp, rất nguyên tắc, tư tưởng chủ quan. Thiên Hình chủ cô khắc, duyên với cha mẹ, anh em mỏng, có hình khắc với người phối ngẫu, con cái, bạn bè tri kỉ ít. Mệnh hội ác tinh gặp Thiên Hình, có khuynh hướng xấu hơn rõ rệt, không yểu tắc bần, anh em cha mẹ không được toàn vẹn. Sao này tại số là y dược, thủ mệnh thân, hội chiếu với nhiều cát tinh, có hứng thú với y liệu, pháp luật, tôn giáo, cũng dễ thành công ở phương diện này. Thiên Hình chủ hình yểu, nhập miếu thì chủ nắm binh.

Thiên Riêu

Thiên Riêu thuộc thủy, là bại tinh, chủ phong lưu háo dâm. Cư Mão Dậu Tuất Hợi là nhập miếu, còn lại là hãm địa.

Thiên Riêu thủ mệnh thân, có nhan sắc, nữ mệnh gợi cảm, tính tình thâm độc, đa nghi, giỏi quan sát , làm việc bí mật sợ người khác biết, duyên với người khác giới tốt, phong lưu háo dâm. Nhập miếu vượng, nho nhã văn vẻ, học rộng, kiến thức phong phú, xã giao rộng, phú quý lắm kẻ hầu hạ, phúc dày, đam mê tửu sắc, tính thích dâm lạc. Hội ác tinh, tan cửa nát nhà, vì sắc mà gặp họa. Thiên Riêu hội chiếu với Hồng Loan, Thiên Hỉ, Đào Hoa, trọng sắc dục, chìm đắm trong tiền bạc tửu sắc. Đồng cung hay hội chiếu với Hóa Cái, Lộc Tồn, Thiên Mã, Xương Khúc, đa phần thuộc thành phần giới văn nghệ, thu được danh lợi. Người sinh giờ Sửu, Thiên Riêu tất cư mệnh, người sinh giờ Tỵ Dậu Sửu, mệnh cung và tam hợp cung tất có Thiên Riêu, Thiên Hình hội chiếu.

Kết thúc phần “Tính chất cơ bản phụ tinh” !

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Bảy 26, 2012 in Nghiên cứu Tử Vi

 

LSDN – TÍNH CHẤT CƠ BẢN CỦA 14 CHÍNH TINH

Tác giả: AnKhoa
Nguồn: lysodoanhnhan.com

Tính chất cơ bản 14 chính tinh, trích dẫn và dịch từ cuốn “Tử Vi đại toàn” bởi kiba_119 và AnKhoa chỉnh lý.

1. Tử Vi

Thuộc Thổ, là sao chí tôn trên bầu trời, Nam Bắc đẩu, hóa Đế Tọa, chủ Quan Lộc.
Tử Vi nhập cung Mệnh, mặt dài vuông vắn hay tròn trịa, sắc tím hay trắng xanh, vùng eo có nhiều thịt, béo vừa phải. Vẻ ngoài trung hậu, ổn trọng dày dạn, khiêm cung chính trực, có khí chất tôn quý, có năng lực lãnh đạo tốt, quan hệ giao tiếp rộng rãi nhưng sau khi thành công lại có sự bảo thủ nhất định. Người có Tử Vi nhập Mệnh đều học rộng, lời lẽ nghiêm nghị, có lễ tiết, cho người khác cảm giác có thể tin tưởng. Rất coi trọng danh lợi, khi mưu cầu theo đuổi thì thái độ tích cực nhiệt tình, nhưng một khi đạt được mục đích rồi thì bỏ qua không để ý nữa. Cao ngạo tự đại, hay làm ra vẻ, một mặt tình cách cố chấp, một mặt khác lại dễ bị lay động bởi lời nói của người khác, đây cũng là một trong số những đặc trưng vốn có của Tử Vi. Nữ mệnh Tử Vi, da trắng mịn, hơi béo, vẻ ngoài đoan trang, nhìn vào là tướng quý phu nhân.
Sao Tử Vi có năng lực chế hóa, có thể làm tăng cái tốt đẹp giảm cái xấu xa, dữ hung tinh đồng cung hay gia hội thì có thể làm giảm thiểu tính hung.
Sao Tử Vi là sao đại cát, tượng là bậc quân vương, hoàng đế. Sở dĩ là bậc quân vương nên cần có văn thần võ tướng ở bên hầu cận. Nếu Tử Vi dữ Thiên Phủ, Thiên Tướng, Lộc Tồn, Thiên Mã, Tả Phụ, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt, Tam Thai, Bát Tọa, Long Trì, Phượng Các, Ân Quang, Thiên Quý, Thai Phụ, Phong Cáo… đồng cung hoặc gia hội thì rất phú quý. Bởi sách xưa có viết: “ Tử Vi ngộ Thiên Phủ, Tả Hữu, Xương Khúc, Lộc Mã tam hợp cực cát, thực lộc thiên chung, cự phú đại quý”. Tử Vi đặc biệt thích Hóa Quyền, hội Tả Hữu hoặc Xương Khúc, chủ quyền quý, nếu không có cát tinh tương trợ thì gọi là “cô quân”, chỉ là một nhân viên làm công ăn lương.

2. Thiên Cơ
Thuộc Mộc, Nam đẩu đệ tam tinh, hóa khí là Thiện, chủ Huynh Đệ.
Thiên Cơ nhập Mệnh, thân hình vừa phải, trung bình, nhập miếu thì béo, lạc hãm thì tương đối gầy, thông thường ở trạng thái béo vừa phải. Hội cát tinh, tâm tính hiền lành, hiếu nghĩa với lục thân, vẻ ngoài đoan chính ổn trọng, hành sự có phương pháp. Tính cách của Thiên Cơ tương đối gấp, có ý chí ứng biến cơ động linh hoạt, phản ứng đàu óc mẫn thiệp, tốc độ nói nhanh, cuộc sống lao tâm. Ham học hỏi tìm kiếm tri thức, đa học đa năng, nhưng chỉ chuyên tâm vào một thứ thì tốt. Có hứng thú và sự yêu thích với triết học, tôn giáo, các sự vật thần bí. Thiên Cơ tại Mệnh, chỉ cần không hội các hung tinh đồng cung, thì trọng tình cảm, vui vẻ giúp đỡ người khác, tâm tính thẳng thắn bộc trực. Người có Thiên Cơ tọa Mệnh tướng đối giỏi xã giao, lên kế hoạch, phân tích, túc trí đa mưu, hành sự có lí lẽ, có năng lực thiết kế sáng sạo.
Thiên Cơ là một sao động, thường hay suy nghĩ nhiều, đứng núi này trông núi khác, vì vậy có xu hướng không bám sát thực tế. Hội sao xấu thì thích cờ bạc.
Nữ giới có Thiên Cơ nhập Mệnh, tính tình cương cường, nắm quyền trong nhà. Tính tình hiền lành, chăm chỉ hiếu thuận, cơ trí linh hoạt, hay suy nghĩ, đối với người khác nhiệt tình hào phóng, nếu được cát tinh củng chiếu thì vượng phu ích tử, có Quyền Lộc thì là bậc quý phu nhân.

3. Thái Dương

Thuộc Hỏa, Nam Bắc đẩu tinh, tượng là mặt trời, chủ quan lộc.

Thái Dương chủ quý, sau mới đến chủ phú. Người nam chỉ cha, con trai; người nữ chỉ cha, chồng, con trai. Do ánh sáng của mặt trời thay đổi theo 12 canh giờ, cho nên Thái Dương ở cung Dần cũng tựa như mặt trời vào giờ Dần, Thái Dương ở cung Mão tựa là mặt trời vào giờ Mão, lần lượt theo thứ tự như vậy.

Thái Dương nhập Mệnh, chủ người sắc mặc đỏ hồng hay tím hồng, khuôn mặt vuông vắn tròn trịa, thân hình khôi ngô, tướng mạo đường hoàng, trung thành chính trực, không tính toán chuyện thị phi, tấm lòng nhân từ, thích giúp đỡ, từ thiện, hào phóng, chí khí cao ngạo, thường bị người khác hiểu nhầm. Thái Dương được cát tinh thủ chiếu, nếu được Thái Âm đồng cung thủ chiếu thì phú quý song toàn.

Nếu hội nhiều cát diệu thì có thể làm khách hay lui đến những nơi quyền quý, không có cát tinh thủ chiếu, thì thuộc tầng lớp nhân viên nhà nước bình thường.

Thái Dương lạc hãm, lao tâm phí lực, tuy Hóa Quyền Hóa Lộc cũng chủ vất vả khác thường, Thái Dương lạc hãm nếu như vào cung Quan Lộc, địa vị không hiển đạt, là người trước chăm chỉ sau biếng nhác.

Nữ mệnh Thái Dương, có chí hướng trượng phu, có cương có nhu, rất giỏi giang. Cá tính háo thắng, duyên với người khác phái tốt, nhiệt tình hướng ngoại, giao tiếp rộng, thường hay giao du với nam giới. Miếu vượng, vượng phu ích tử, hội Quyền Lộc được phong tặng (đất đai, chức hiệu), cung Phúc Đức có cát tinh chủ lấy được người chồng thông minh sáng suốt.

4. Vũ Khúc

Thuộc Kim, Bắc Đẩu đệ lục tinh, hóa Tài, chủ Tài bạch.

Vũ Khúc thủ Mệnh, đa phần cương cường quả quyết, tâm tính thẳng thắn không dụng tâm, dáng nhỏ giọng nói cao mà to, thích thể thao vận động. Trọng nghĩa khí, có ý chí kiên cường bất khuất, coi trọng chữ tín, lời lẽ hào sảng nhanh gọn, mặt hình vuông.

Nữ mệnh Vũ Khúc nhập Mệnh, một đời vất vả nhiều, đoạt quyền chồng, thích ra lệnh trong nhà, thường coi thường chống. Sau hôn nhân khó mà ở yên trong nhà, hay ra ngoài làm việc. Vũ Khúc nhập Miếu chỉ quyền quý, là quý phu nhân, hội cát tinh thì quả quyết cương nghị, dễ trở nên người phụ nữ cứng rắn. Hãm địa có sát tinh thì cô đơn, hình phu khắc tử, thậm chí trở thành quả phụ. Nếu lại hội thêm Xương Khúc Thiên Diêu Đào Hoa hay Liêm Trinh thủ Thân, không những hình khắc mà còn đào hoa tính nặng.

Vũ Khúc và chư hung tinh hội tụ gây nên họa, cùng chư cát tinh thì thành cát. Đây là sao cương cường, chủ cô khắc, hợp với nam, không hợp với nữ. Nữ mệnh có sao này thì gọi là Quả túc tinh, hội Dương Đà Hỏa Linh, bất lợi cho hôn nhân, hình khắc.

5. Thiên Đồng

Thuộc Thủy, Nam Đẩu đệ tứ tinh, hóa Phúc, chủ Phúc Đức. Thiên Đồng là một phúc tinh, tại 12 cung đều luận là phúc, có tác dụng chế hóa giải tai ách. Thiên Đồng ở Mệnh, mặt hình vuông tròn, hai má đầy đặn, tính tình ôn hòa, khiêm tốn lễ độ, nhân từ cương trực, tinh thông văn họa, có chí lạ, không hung ác. Nhập miếu thì thân hình béo, lạc hãm thì thân hình trung bình hay lùn. Cái phúc của Thiên Đồng, biểu hiện ở việc người đó có chút lười biếng, đặc biệt là biểu hiện trong cuộc sống thường ngày, chuyện gì cũng lười vận động, có thể kéo dài thì kéo dài, nên mới gọi những người lười là có cái phúc lười, có mang ý nghĩa ngồi hưởng thành quả ở sâu bên trong. Lí tưởng rất cao, suy nghĩ rất kĩ về chuyện tương lai, nhưng hành vi thực hiện thì lại rất ít, thậm chí trở thành kẻ nói suông. Vì vậy nên Thiên Đồng hỉ có sát tinh kích thích, như vậy sẽ khơi dậy được năng lượng của Thiên Đồng để làm nên chuyện.

Đặc điểm của sao Thiên Đồng là tính tình lạc quan, không câu nệ tiểu tiết, ở bên ngoài hay được mọi người yêu quý. Có hứng thú với nhiều thứ, biết cách bằng lòng mà sống vui vẻ, ít khi tức giận, không nhớ những chuyện hận thù, không gây thù chuốc oán, là người hài hước, tự mình cảm thấy vui vẻ. Khuyết điểm là thích tránh những công việc nặng nhọc, làm việc hay băn khoăn, nên khiến cơ hội nhiều khi đến sát bên mình rồi lại biến mất. Nam mệnh Thiên Đồng đơn thủ Mệnh cung thì có chút yếu đuối dễ bắt nạt. Thiên Đồng thủ Mệnh dù ở cung nào, tính tình cũng đều ngây thơ, có lúc giống như một đứa trẻ con. Thiên Đồng nhập Mệnh, bất luận nam hay nữ, đa phần đều trông béo tốt, mũm mĩm, khả năng tự hạn chế bản thân khá kém, dễ bị thế giới bên ngoài cám dỗ. Nữ mệnh Thiên Đồng, khuôn mặt xinh xắn, hơi béo, da trắng, đối xử thân thiết với mọi người, sau trung niên thì béo.

6. Liêm Trinh

Liêm Trinh thuộc Mộc, Hỏa, Bắc Đẩu đệ ngũ tinh, hóa khí là Tù tinh, chủ Quan Lộc, hỉ nhập cung Quan Lộc, ở Mệnh Thân cung, là thứ đào hoa. Người có Liêm Trinh nhập Mệnh, thân hình trung bình, trí nhớ rất tốt, khỏe mạnh cường tráng, mắt lộ, gò má cao. Lông mày rậm mắt to, mồm lớn, mặt vuông hay chữ nhật. Tính cách cao ngạo sơ cuồng, tính tình cứng rắn thẳng thắn, là người cố chấp, đa phần tự cho mình là đúng, không nghe lời khuyên của người khác. Chăm chỉ chịu làm lụng, tình cảm mãnh liệt, thích tự do, thích nói đôi câu công bằng đạo lý ở chỗ công cộng. Tính tình thích phân tranh, khi bất đồng quan điểm với người khác thì sẽ ngay lập tức phản kháng. Quan hệ xã giao có lúc không tốt.

Trên đây chỉ là những đặc tính bình thường của Liêm Trinh, cần phải phối hợp thêm với các sao khác để có kết luận cuối cùng, vì Liêm Trinh có thể âm nhu cũng có thể dương cương. Đồng cung với Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang hoặc đồng cung với Dương Đà Hỏa Linh Tứ Sát, hoặc đồng cung với Hóa Kỵ thì biểu hiện rất rõ các tính chất trên, tính tình ngang ngạnh, lòng báo thù lớn, gấp gáp nông nổi, dễ tranh chấp với người khác, thể hiện rất rõ sự dương cương. Nếu như Liêm Trinh đồng cung với Thiên Tướng, Thiên Phủ, Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt hay Liêm Trinh Hóa Lộc thì lại biểu hiện đặc tính âm nhu, là người chăm chỉ ổn trọng, dám làm dám chịu, tích cực cầu tiến, đối xử với mọi người ôn hòa thân thiết, tuy cũng có phần cao ngạo nhưng không nhất thiết thể hiện ra bên ngoài. Nếu như hung cát tinh hỗn tạp thì nửa âm nửa dương, vừa chính vừa tà, yêu ghét khó định.

Nữ mệnh Liêm Trinh tọa Mệnh cung, khí chất tốt, cho người khác cảm thấy rất ẩn chứa và thu hút, cơ thể đẹp, ngũ quan đoan chính thanh tú, chính trực, làm việc già dặn, tính tình khá cương nghị.

7. Thiên Phủ

Thuộc Thổ, đứng đầu trong chòm nam đẩu tinh, hóa Lệnh tinh, chủ tài bạch, điền trạch.

Người có Thiên Phủ nhập Mệnh tướng mạo thanh kỳ, thân hình trung bình, mặt hình vuông, dáng người béo tốt đầy đặn. Tính tình ôn hòa, ổn trọng, đứng đắn, tinh thần viên mãn, không câu nệ tiểu tiết, có tình nghĩa và sự cảm thông, nhiều bạn bè tri kỉ, có thể gây dựng được sự tin tưởng, cuộc sống hay được quý nhân tương trợ. Thiên Phủ có tâm thái bằng lòng yên vị với hiện trạng, thiếu sự khai sáng và xung kích lực, phấn đấu đến một mức độ nào đó rồi lười biếng từ bỏ. Có dục vọng về quyền lực, yêu thích tiền bạc, thích sự sung túc, hội lục cát tinh, trung hậu lương thiện trọng tình cảm, có thể đảm nhận các công việc quan trọng về tài chính kinh tế hay làm quản lý.

Nữ mệnh Thiên Phủ, có khí chất của quý phu nhân, Thân thể hơi béo, sau trung niên đa phần mập mạp. Dịu dàng có sự cảm thông, là người ổn trọng, không xử trí theo cảm tính, hành sự lý trí, giỏi xử lý các quan hệ ngoại giao.

8. Thái Âm

Thuộc Thủy, Nam Bắc Đẩu tinh, tượng là mặt trăng trên trời, hóa Phúc, chủ Tiền Bạch, Điền Trạch. Thái Âm chủ Phú, sau mới chủ Quý. Người nam thì ứng với mẹ, vợ, con gái; người nữ thì ứng với mẹ, con gái.

Thái Âm tại Mệnh thay đổi ánh sáng theo thời gian, như Thái Âm ở cung Tý tượng trưng cho mặt trăng vào giờ Tý, Thái Âm ở giờ Dậu tượng trưng cho mặt trăng ở giờ Dậu, lần lượt suy tiếp.

Thái Âm nhập Mệnh cung, mặt vuông tròn, thân hình trung bình, hơi béo, da trắng sáng. Tính tình dịu dàng, thanh tú cương trực, thông minh tuấn tú, khí chất bên ngoài tốt, đoan chính, khiêm tốn lễ độ, suy nghĩ tinh tế, biết cách cư xử thỏa đáng trong giáo tiếp, tránh được xung đột chính diện, xử lý tốt đẹp các mối quan hệ. Bất luận miếu hãm, đều có sự tu dưỡng về phương diện văn học nghệ thuật, văn hay chữ tốt, học nhiều đa năng. Ưa sạch sẽ, chú ý đến sự thú vị của cuộc sống, là người theo chủ nghĩa duy mỹ. Tính tình thích tĩnh, có hứng thú với triết học, tâm lý học, mỹ học, thần bí học, thích trầm tư, suy nghĩ kĩ càng, giàu trí tưởng tượng, tư duy siêu thực, thậm chí nhiều lúc có xu hướng đa sầu đa cảm. Đa phần tưởng tượng rất lãng mạn về cuộc sống, nhưng có lại không đồng ý thay đổi. Nam nữ đều có duyên sắc sắc với người khác giới, dễ phạm đào hoa.

Nam nữ phong lưu hào phóng, nho nhã, trực tính gấp gáp, dễ thân thiết với nữ giới, cử chí có lúc bị nữ tính hóa, ẻo lả, đồng cung với sát tinh thì không nhất thiết như vậy.

Nữ mệnh mắt ngọc mày ngà, dung mạo đẹp đẽ, mềm mại như thương, khiến nam giới phải đắm say.

9. Tham Lang

Tham Lang thuộc Thủy Mộc, Bắc Đẩu đệ nhất tinh, hóa Đào Hoa Sát, chủ họa phúc.

Nhập miếu là người béo đứng thẳng, xương mày khá cao, lạc hãm thì thấp nhỏ, tiếng cao âm lượng lớn. Người có Tham Lang nhập Mệnh, vô cùng tình cảm hóa, tính cách đều tương đối phức tạp, không ổn định, hiếu động, giỏi xa giao tiệc nhậu, một đời hay kết giao bạn bè, bản tính lạc quan, đam mê dục vọng vật chất, thích ăn uống hưởng lạc, rượu chè cờ bạc trai gái không gì là không thể. Là người không câu nệ tiểu tiết, tình cảm thăng trầm nhiều biến động lớn, có lúc thích khôn vặt, cho người khác những ân huệ nhỏ. Khẩu tài lưu loát, khoe khoang, thích thổi phồng, chủ đề bàn luận phong phú, có khuynh hướng hào nhoáng mà không thực. Tâm lý hên xui rất lớn, tính hích đầu cơ, mạo hiểm, hi vọng có thể một sớm một chiều có kì tích hoạch phát xảy ra, làm việc không đủ kiên nhẫn. Đối với tiền bạc khá rộng rãi, lãng phí, một đời tài vật cũng nhiều hư hao. Trong cuộc sống thích được kích thích, thứ gì mới lạ, hợp ý, không chịu cảnh bình thường, không vừa lòng với hiện trạng, luôn hi vọng có sự đột phá trong công việc, vì vậy mới tồn tại cái tật xấu làm không đến nơi đến chốn. Tham Lang thủ Mệnh thích thuật thần tiên, thích nghiên cứu và tìm hiểu thảo luận về văn hóa thần bí khí công tăng đạo. Tính tính khá gấp, hay tính toán, không chịu tĩnh lặng, ham cờ bạc hoa tửu, háo sắc. Người có Tham Lang nhập Mệnh, bất luận nam hay nữ, trừ một số ngoại lệ cực kì cá biệt, tuyệt đại đa số đều có đào hoa hay có ngoại ngộ.

Nữ mệnh, gợi cảm, sớm trưởng thành, thân thể phổng phao có sức thu hút, tính dục cao, chí cao tính cương, xã giao rộng.

10. Cự Môn

Thuộc Thủy, Bắc Đẩu đệ nhị tinh, hóa Ám, chủ thị phi.

Ánh mắt sắc bén, miệng nổi bật, mặt hình vuông tròn, nhập miếu thân hình to béo, đôn hậu thanh tú, lạc hãm thì ngũ đoạn (tay chân cổ…) gầy nhỏ, giọng cao mà tốc độ nhanh.

Cử chỉ tùy tiện, không chú ý đến lễ nghi. Cự Môn nhập Mệnh, không tách rời được “khẩu”, chủ người ăn nói tốt, hội cát tinh, thường thích hợp làm những công việc nói là chủ yếu, giỏi xử lý các mối quan hệ công cộng, lời lẽ có phần giả dối, giỏi thổi phồng, là nhân tài trong việc ngoại giao.

Cuộc sống vất vả, sau khi vất vả phấn đấu có thể có thành tựu. Không hòa thuận với người khác, nhìn chung một đời thường hay rước thị phi khẩu thiệt, quan hệ giao tế không tốt, dễ làm tổn thương người khác. Có khả năng phân tích và liên tưởng rất xuất sắc, có tài biện luận, không bằng lòng với hiện trạng, tính tình khá ngoan cố, tự tin, tâm lý nghi ngờ lớn, không quá tin tưởng người khác, việc gì cũng phải tra hỏi rõ ràng đến cùng, thích có được những thông tin đích thực rút ra từ thực tiễn.

Không coi trọng những tình tiết trong cuộc sống, cuộc sống vật chất chỉ cần sống được là sống, thích nghiên cứu học vấn kĩ thuật, học nhiều mà tinh thông ít, có những kiến giải đặc biệt với những gì quan sát được, kĩ tính, lòng dạ sắt đá, tự tư tự lợi, khả năng cảm thông kém, suy nghĩ quá nhiều vì vậy làm việc luôn do dự không dứt khoát.

Bụng dạ hẹp hòi, thích làm lớn những vấn đề nhỏ, khi nói chuyện thường vô tình đắc tội với người khác, cũng thích bắm chặt không tha những khuyết điểm sai lầm của người khác, thiếu sự khoan dung, khi lợi ích của bản thân bị xâm phạm thì bất luận chuyện lớn hay bé đều nổi trận lôi đình, hơn nữa cũng dễ gây hiểu lầm cho người khác, một đời thị phi không dứt, tranh chấp trong tối ngoài sáng liên miên, rất nhiều kẻ tiểu nhân, khó mà có thể sống những ngày tháng yên bình.

Nữ mệnh Cự Môn, lòng tự tôn cao, mẫn cảm đa nghi hẹp hòi, bụng dạ nhỏ hẹp, ngang ngạnh, tự cho mình là đúng, làm việc có trách nhiệm, yêu thích tiền bạc, tính cách đa phần không tốt.

11. Thiên Tướng

Thuộc Thủy, Nam Đẩu đệ ngũ tinh, hóa Ấn, chủ Quan Lộc.

Thiên Tướng nhập Mệnh, chủ tướng mạo đôn hậu, chín chắn, sắc mặt trắng xanh hoặc vàng nhạt, khuôn mặt vuông tròn, Thân hình trung bình, nhập miếu đầy đặn béo tốt, thích ăn nhậu, vật chất đầy đủ. Ăn nói chân thực, không giả dối, thấy người khác khó khăn thì động lòng xót xa, thấy kẻ ác thì bất bình. Lời lẽ cẩn thận, suy nghĩ chu đáo, có lòng chính nghĩa. Quan hệ xã giao tốt đẹp, đối xử với mọi người chân thành, khiêm tốn lễ độ, giúp đỡ mọi người thường xuất phát từ tấm lòng chứ không tính toán chuyện báp đáp. Lòng dạ lương thiện, ôn hòa, khoan dung, làm việc chăm chỉ, có năng lực quản lý và xử lý nghiệp vụ tốt, có thể hi sinh lợi ích bản thân để phục vụ đại cục. An phận thủ thường, một đời nhẫn nhịn chịu khó, một lòng trung thành, thích hợp làm các công việc phò trợ người khác. Sao Thiên Tướng có những đặc tính tốt đẹp như trên, vì vậy được mọi người yêu quý.

Người có Thiên Tướng nhập Mệnh có khuyết điểm là việc gì cũng quá cẩn thận, suy nghĩ quá nhiều, thiếu sự thực tế và sự khai thác, bằng lòng với hiện tại, vì vậy thích hợp làm các công việc thư ký hay phía hậu trường.

Không quá giỏi kinh doanh là một trong số đặc tính của Thiên Tướng. Nếu kinh doanh tất là thương gia lương thiện. Người Thiên Tướng thật thà, không giỏi dùng mưu dùng kế, có lúc quá tin tưởng người khác, cơ hội đến nhưng không nắm bắt ngay nên thường lọt vào tay người khác.

Nữ mệnh Thiên Tướng, dịu dàng hướng nội, nội tâm tốt đẹp, dung mạo đoan trang ổn trọng, da dẻ nhẵn nhụi, lễ phép nhã nhặn, không tính toán với người khác, không quá coi trọng sự nghiệp, không thích khoe khoang và bàn chuyện không đâu, thích ở lì trong nhà. Thích hợp cùng chồng dạy con, là vợ hiền mẹ tốt, vật chất như ý.

12. Thiên Lương

Thuộc Thổ, Nam Đẩu đệ nhị tinh, hóa Ấm, sao chủ Thọ.

Thiên Lương tọa Mệnh, chủ người có vẻ ngoài ổn trọng khiêm nhường, từng trải, từ bi, gương mặt dài vuông, xương gò má cao, lưng hơi gù, hơi béo. Thanh tú, thông minh chính trực, là người chính trực không tư lợi. Hay lo chuyện thiên hạ, lấy việc giúp đỡ người làm vui, hay giúp đỡ những người kinh tế khó khăn. Quang minh lỗi lạc, gặp chuyện thì quyết đoán, xử lý việc luôn đứng trên lập trường công bằng, không thiên vị, thận trọng, có phong thái của người lớn tuổi, thường nhận được sự kính trọng của mọi người, thích khoe khoang, thường giúp người khác giải quyết tranh chấp, nhưng cũng gặp hiểu lầm, làm ơn mắc oán. Người có sao Thiên Lương nhập Mệnh thì tâm tính nhân nghĩa từ bi, có sự nghiên cứu và hứng thú với y học thuốc thang, đặc biệt có duyên bẩm sinh với trung y, đông dược, thuật số tôn giáo. Tính tình thanh cao, coi thường chuyện tiền bạc, đối với chuyện tiền bạc không quá tính toán chuyện được mất. Có tài cán, lòng dạ rộng rãi, có điều tính háo thắng, có dục vọng về quyền lực và dục vọng lãnh đạo, đa phần thường có vài phần ngạo mạn, vẻ mặt người ở trên cao, phẩm hạnh của người già. Tư tưởng chính thống, kiên trì với nguyên tắc, không chịu dễ dàng chấp nhận sai sót khuyết điểm của bản thân.

Nữ mệnh Thiên Lương, dung mạo đoan trang, mắt dài mũi thẳng, ôn hòa chính trực, sống trọng tình nghĩa, trong nhu có cương, nhiệt tình, thích giúp đỡ người khác. Nhập miếu hội cát tinh, nhiều tài nghệ, phú quý song toàn. Hội Xương Khúc, có tài hoa văn nghệ. Hội Tả Hữu, chính trực khoan dung trung hậu, giúp người làm vui, cùng chồng dạy dỗ con cái. Hội Dương Đà Hỏa Linh, cô khắc, rước thị phi, không thuần khiết.

13. Thất Sát

Thuộc Hỏa, Kim, Nam Đẩu đệ lục tinh, là Tướng tinh, hóa Đế vi Quyền

Người có Thất Sát nhập Mệnh, mắt to, xương mày nổi bật, mắt có vẻ uy nghiêm, khuôn mặt vuông dài hoặc gầy dài, có nếp nhăn, trên mặt có nhiều vết đốm hoặc rỗ. Thân thể có thương tích, nhập miếu béo, lạc hãm thì gầy nhỏ, vẻ ngoài tháo vát pha lẫn sức khỏe. Hành vi phóng khoáng ngang tàng, không câu nệ tiểu tiết, tốc độ đi nhanh. Cá tính vô cùng hiếu thắng, quật cường cứng rắn, có sự tự chủ độc lập, có khí khái bất khuất, tính tình dữ dội, dễ nổi cáu, hỉ nộ ái ố thể hiện trên khuôn mặt. Không thích bị người khác can thiệp ràng buộc, sự độc lập lớn, dũng cảm, có dũng khí và sự thực hành, đối mặt với khó khăn sẽ dũng cảm tiến về phía trước, tuyệt đối không sợ hãi. Là người thích đầu cơ mạo hiểm, không sợ không làm được, chỉ sợ không nghĩ ra, trong cuộc sống là kiểu người khai sáng tiến công. Có mưu lược, có năng lực lãnh đạo thống lĩnh tốt, chỉ có điều tính tình quá gấp gáp, thường bực tức, dễ coi cấp trên là vô dụng, nên có tâm lý phạm thượng, đối với cấp dưới, bạn bè thì tương đối khoan dung. Thành bại một đời thường đến rất đột ngột, bất luận nam hay nữ, đều phải trải qua khó khăn mới có thành tựu.

Nữ mệnh Thất Sát, tính tình hướng ngoại, hoạt bát hào phóng, có khí chất, tính cương, làm việc già dặn, có tinh thần trượng nghĩa, thích giúp người, thuộc loại hình của công việc, không có hứng thú gì với chuyện làm vợ hiền mẹ tốt, sau khi kết hôn tất đoạt quyền chồng, chồng phải nghe lời vợ.

14. Phá Quân

Thuộc Thủy, Bắc Đẩu đệ thất tinh, hóa Hao, chủ phu thê, tử tức, nô bộc.

Phá Quân nhập Mệnh, lưng dày, mày khoan, eo nghiêng, tiếng nói sắc bén, động tác nhanh, không coi trọng lễ nghĩa, thích ăn vặt, thái độ thiếu ổn trọng. Nhập miếu thân hình ngũ đoản, hơi béo, hãm địa cao gầy, phá tướng hay mặt có lốm đốm.

Cá tính đặc biệt, kiêu ngạo, không khuất phục hay chịu sự quản thúc của ai, hỉ nộ vô thường, thích ham muốn hưởng thụ vật chất, thích săn bắt thú, tính tình cương cường, thích tranh đấu, quan hệ xã giao không tốt, đặc biệt thích góp vui.

Phá Quân chủ người hành động độc đoán, tự cho mình đúng. Cư miếu vượng, bản tính nghiêm khắc có tài thao túng, là người cương cường có chủ kiến. Nhập hãm địa thì tính tình dữ dội dễ dẫn đến cực đoan. Yêu ghét phân minh, là người thiên tính cố chấp, ý thức chủ quan mạnh, là điển hình cho chủ nghĩa cá nhân, đa phần thuộc kiểu người tự tư tự lợi, lòng dạ hẹp hòi, gian trá xảo quyệt. Sự hiếu kì lớn, làm việc gì cũng dựa vào hứng thú nhất thời, khó có sự bền chí đến cùng, thiếu kiên nhẫn, thường bỏ dở giữa chừng. Lời nói và việc làm tùy hứng bất chấp mọi thứ, cử chỉ khoa trương, cuồng ngạo đa nghi, tính khí cứng rắn, tự ý tổn thương người khác, có tính phá hoại, thích dùng vũ lực giải quyết vấn đề, coi cái xấu là tốt, việc giúp người là xấu, lấy ân báo oán, đối nhân xử thế thường mang ý thù địch, với người thân thì vô nhân nghĩa, khó có thể hòa nhập chung sống, thậm chí lục thân như nước với lửa, thường trở mặt với bạn bè, một đời dễ kết oán với người khác. Không chịu cảnh nhàn rỗi, có tinh thần khai sáng và tâm lý hên xui mạnh mẽ, thích đầu cơ mạo hiểm, mơ ước chỉ qua một đêm trở nên giàu có. Nữ mệnh Phá Quân, một đời vất vả, tuy lầm lì nhưng hiếu động, lòng tự tôn lớn, khó có thể vui vẻ dài lâu, thích ăn vặt, có khuynh hướng thần kinh, dễ làm ngược lại, tính tình chanh chua.

Kết thúc phần “Tính chất cơ bản 14 chính tinh” !

Để hiểu sâu thêm về 14 chính tinh, tại các thế đứng khác nhau, khi đi cùng với các phụ tinh thì bị ảnh hưởng thế nào, mời quý vị tham khảo tại phần Kiến thức nâng cao tại diễn đàn.

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Bảy 26, 2012 in Nghiên cứu Tử Vi

 

LSDN – Cung Tài Bạch

Tác giả: AnKhoa
Nguồn: lysodoanhnhan.com

Cung Tài Bạch

(1) 财帛宫遇吉星庙旺守值, 如紫微, 天府, 天相, 廉贞, 太阳, 太阴, 贪狼, 禄存, 化禄, 左辅, 右弼等, 主财多; 遇擎羊, 陀罗或廉贞七杀在闲陷之地, 主财运平常, 时有时无; 遇天机主财进财出, 来而难守; 遇火铃空劫等凶星又逢陷地, 主贫.

(1) Cung tài bạch gặp cát tinh miếu vượng địa thủ chiếu, như Tử Vi, Thiên Phủ, Thiên Tướng, Liêm Trinh, Thái Dương, Thái Âm, Tham Lang, Lộc Tồn, Hóa Lộc, Tả Phụ Hữu Bật… thì chủ nhiều tiền bạc; gặp Kình Dương, Đà La hoặc Liêm Trinh Thất Sát ở đất bình hòa hay hãm địa thì chủ đường tiền bạc bình thường, lúc có lúc không; gặp Thiên Cơ chủ tiền vào tiền ra, có tiền nhưng không giữ được; gặp các hung tinh Hỏa Linh Không Kiếp lại hãm địa thì nghèo khó.

(2) 各星若遇羊陀火铃空劫耗忌死绝等恶宿, 富足者不旺盛, 不旺者皆主辛劳中求财.

(2) Các sao nếu như gặp Kình Đà Hỏa Linh Không Kiếp Hao Kỵ thì người dù giàu hay không đều phải kiếm tiền nhờ lao động vất vả.

(3) 经云: “紫府武阴, 双禄主财”. 详考其它, 如擎羊, 文昌, 左辅, 七杀, 天刑, 陀罗, 子午破军, 红鸾天喜等星曜, 可皆视为财星. 然擎羊之财, 终非真正, 或十年, 或一年, 或一月, 或一日, 或一时, 其它如陀罗, 七杀之财, 均与擎羊一致, 仅主短暂而财来财去, 散聚无常, 或横发一瞬即告耗尽, 或主非吾所享. 左辅, 文昌之财, 则较久远而延绵. 破军之财, 过则必败, 鸾喜之财, 来则不存, 有如季花之盛开. 凡财宫之财星曜, 以单守为美, 复得中天吉星为辅及三方众吉拱冲照合最为美妙. 若遭凶宿守值照, 财者得亦难聚, 反生是非, 重则招灾致祸. 巨门, 太阳, 天梁之财, 多由口舌竞争而得. 此外若有二正星并守财宫亦然. 孤寡刑克之星入财宫, 必主财来财去, 余资何有. 魁钺文曲之财为间接, 机佳则美, 限蹇则偃. 火铃之财, 到手成空. 惟铃星守财宫为偏财, 每有意外之得. 咸池之星亦主财, 诀曰 见财而后桃花”, 得之亦多于歌台舞榭, 花丛酒色. 人生世间, 发财养命, 惟来去得失各异也.

(3) Sách viết: “Tử Phủ Vũ Âm, Song Lộc chủ tài”. Mặt khác, các sao như Kình Dương, Văn Xương, Tả Phụ. Thất Sát, Thiên Hình, Đà la, Tí Ngọ Phá Quân, Hồng Loan Thiên Hỉ đều có thể coi là tài tinh, nhưng cái tiền tài của Kình Dương luôn không phải là chân chính hoặc 10 năm, hoặc 1 năm, hoặc 1 tháng, hoặc 1 ngày, hoặc 1 giờ. Các sao khác như Đà La, Thất Sát cũng giống như Kình Dương, chỉ chủ tiền bạc đến trong 1 giai đoạn ngắn rồi lại rồi mất, tán tụ bất thường, hoặc hoạch phát rồi hao tốn sạch, hoặc có mà không được hưởng. Cái tiền tài của Tả Phụ, Văn Xương thì kéo dài khá lâu. Tiền tài mà Phá Quân đem lại sau khi vượt qua tất bị hao bại. Tiền tài của Hồng Hỉ đến nhưng không giữ được, như một mùa hoa nở vậy. Phàm các sao của cung Tài Bạch, đơn thủ là tốt nhất, sau đó xét đến các sao phụ và cát tinh tam hợp xung chiếu là hoàn mỹ nhất. Nếu như hung tinh thủ chiếu, tiền tài khó tụ, nếu không ắt sẽ sinh thị phi, nặng có thể dẫn đến tai họa. Tiền tài do Cự Môn, Thái Dương, Thiên Lương mang lại, thường do tranh đấu miệng lưỡi mang lại. Ngoài ra nếu như có 2 chính tinh thủ chiếu cung Tài Bạch cũng vậy. Cô Quả Hình Khắc nhập cung Tài Bạch, tất chủ tiền đến tiền đi, không còn lại gì.Tiền tài mà Khôi Việt Văn Xương mang lại là gián tiếp, gặp cơ hội tốt thì đẹp, gặp hạn khó khăn thì sẽ đi xuống (hoặc đứng yên). Tiền tài Hỏa Linh mang lại, đến tay thì hóa ra hư không. Nếu chỉ có Linh tinh thì thiên về tiền tài, được tiền ngoài dự kiến. Sao Đào hoa cũng chỉ tiền tài nhưng chỉ tiền nhờ vào ca múa hát nhảy sân khấu hay sắc đẹp mà có.

(4) 经云: 诸凶照财帛, 聚散无常; 禄存守于财宅, 堆金积玉; 武曲贪狼财宅, 横发资财; 权禄守财福之位, 出世荣华; 劫空临财福之乡, 生来贫贱; 日月夹财, 加吉曜, 不权则富; 左右财宫, 兼夹拱, 衣禄丰隆; 紫微辅弼, 多为财赋之官; 武曲, 太阴, 多居财赋之任; 紫府武曲居财帛, 更兼权禄富奢翁.

(4) Sách viết: Các hung tinh chiếu cung tài bạch, tán tụ bất thường, Lộc Tồn thủ cung Tài thì chủ tích lũy được tiền bạc; Vũ Khúc Tham Lang ở cung Tài bạch chủ hoạch phát; Quyền Lộc thủ Tài bạch cung, Phúc cung thì ra ngoài được vinh hoa; Không Kiếp vào Tài Phúc cung thì sinh ra nghèo khó; Nhật Nguyệt vào Tài cung, gia cát tinh, không có quyền lực cũng có tiền bạc; Tử Vi Phụ Bật làm công việc về tài chính; Vũ Khúc, Thái Âm hay đảm nhiệm chức vụ liên quan đến tiền; Tử Phủ Vũ Khúc cư Tài Bạch, thêm Quyền Lộc càng giàu có.

(5) 有财帛宫凶而其人却富者, 当是命宫, 迁移, 官禄宫坐吉化吉, 经云: 诸星吉多, 逢凶也吉. 故审人之贫富, 不可就财帛一宫执一而断, 妄下结论, 另外, 仍须看其人大限步入何乡, 方可判断无误. 反之亦然.

(5) Người có cung Tài bạch xấu nhưng vẫn giàu có, đương nhiên là nhờ cung Mệnh, Thiên Di, Quan Lộc cát hóa, sách viết: Nhiều cát tinh, gặp hung cũng hóa cát. Đánh giá sự giàu nghèo của 1 người không thể chỉ dựa vào duy nhất cung Tài Bạch mà luận được, ngoài ra còn phải xem đại hạn của người đó nhập cung thế nào rồi mới phán đoán tốt xấu.

(6) 凡七杀, 破军, 贪狼, 天机, 巨门, 天梁在财帛宫有煞星守照, 其人必是好赌之辈, 煞重又加空劫大耗, 可能血本无归.

(6) Phàm Thất Sát, Phá Quân, Tham Lang, Thiên Cơ, Cự Môn, Thiên Lương vào cung Tài bạch có hung tinh tọa thủ thì người đó tất hay cờ bạc cá cược, sát tinh nhiều lại gia Không Kiếp Đại Hao thì có thể tay trắng.

(7) 流年斗君在原命盘财帛宫过度, 遇众吉守照, 主一年旺发; 逢四煞空劫耗忌, 主破财, 或因财而起官非争讼.

(7) Lưu niên đẩu quân qua cung Tài bạch, gặp cát tinh thủ chiếu, chủ 1 năm phát tài thịnh vượng, nếu gặp Tứ Sát không kiếp Hao Kỵ chủ phá sản hoặc thất thoát tài sản hoặc vì tiền mà sinh thị phi kiện cáo.

★ 紫微
Tử Vi

一生财运丰厚, 相对而言较为稳定. 得左右昌曲吉曜, 财运亨通, 财源不断, 多为财赋之官, 在税务, 工商, 银行等部门工作. 紫微化权, 主大富, 或为财赋之官. 紫微化科, 主富贵财名. 与禄存, 化禄同宫会照, 主大富, 见禄马交驰, 经商巨富, 书谓: “紫微居财帛, 更兼化禄, 富奢翁”. 辅弼同宫, 财路广, 八方得利. 昌曲同宫, 富, 先名后利.

Một đời tiền bạc đầy đủ, tương đối ổn định. Được thêm các cát tinh Tả Hữu Xương Khúc thì tài vận hanh thông, tiền bạc không bị đứt đoạn, thường là quan về tài chính, công tác ở các cơ quan ban ngành như ngân hàng, công thương, thuế vụ… Tử Vi Hóa Quyền chủ đại phú, hoặc là quan về tài chính. Tử Vi Hóa Khoa, chủ phú quý được cả danh tiếng lẫn tiền bạc. Hội chiếu đồng cung với Hóa Lộc, Lộc Tồn, chủ đại phú, gặp Lộc Mã giao trì, kinh doanh thương mại cự phú, sách có viết: “Tử Vi cư Tài bạch, canh kiêm Hóa Lộc, Phú xa ông” Phụ bật đồng cung, đường tiền bạc rộng rãi thông thoáng, thuận lợi. Xương Khúc đồng cung là phú, trước được danh sau được lợi.

与羊陀火铃同宫, 财运有起伏, 先易后难, 能横发资财, 但发而不守, 必有破败. 与大耗空劫四煞同宫, 虚有其表, 支出较大, 财运不稳.

Đồng cung với Dương Đà Hỏa Linh, tài vận có trở ngại, trước dễ sau khó, có thể hoạnh phát, nhưng phát mà không thể giữ được, tất sẽ phá sản. Đồng cung với tứ Sát Không Kiếp Đại Hao, đường tài vận không ổn định, bề ngoài thì hư ảo, hay phải chi tiêu lớn.

紫微天府在寅申, 主富足, 终身财旺.

Tử Vi Thiên Phủ tại Dần Thân, chủ sung túc giàu có, cả đời tiền bạc đầy đủ hưng vượng.

紫微贪狼在卯酉, 先难后易, 中晚年丰隆. 见贪狼化禄会火铃, 主暴发.

Tử Vi Tham lang tại Mão Dậu, trước khó sau dễ, trung niên trở ra thì đầy đủ. Hội Tham Lang Hóa Lộc hội Hỏa Linh, chủ bạo phát.

紫微天相在辰戌, 富裕, 财气旺盛, 羊陀火铃同宫, 吉中有凶, 必有破败.

Tử Vi Thiên Phủ tại Thìn Tuất, giàu có, tiền bạc thịnh vượng, đồng cung Dương Đà Hỏa Linh, trong cát có hung, tất có lần thất bại phá sản.

紫微七杀在巳亥, 先难后易, 遇吉星同宫或加会, 能横发.

Tử Vi Thất Sát tại Tị Hợi, trước khó sau dễ, gặp cát tinh đồng cung hoặc hội chiếu có thể hoạnh phát.

紫微破军在丑未, 财旺, 但不顺, 必有波折. 易得意外之财, 见诸吉暴发, 凶星加会, 发而不久, 成败不一.

Tử Vi Phá Quân tại Sửu Mùi, tiền tài vượng nhưng không thuận, tất có sự trắc trở. Dễ có tiền ngoài dự kiến, gặp cát tinh thì bạo phát, hung tinh hội chiếu thì phát tài nhưng không được lâu, thành bại bất nhất.

★ 天机
Thiên Cơ

劳心费力而生财, 少有意外财运, 并主一生财来财去. 庙旺白手成家, 财源丰足, 逢吉曜拱照旺盛. 与禄存, 化禄, 天马会合, 主富裕. 昌曲同宫, 先名后利, 财运佳. 左右同宫, 多遇贵人而生财. 凡天机入财帛, 其钱财流运性较大, 若原命宫三方格局佳者, 容易在银行或金融部 工作. 若从事商业, 易为批发商, 中间商.

Nhờ lao tâm phí lực mà có tiền tài, ít khi có tiền ngoài dự kiến, chủ 1 đời tiền có rồi hết. Miếu vượng thì tay trắng tạo lập nhà cửa, tiền tài đầy đủ, nếu gặp cát tinh cộng chiếu miếu vương, hội chiếu với Lộc Tồn, Hóa Lộc, Thiên mã thì giàu có. Đồng cung với Xương Khúc, trước có danh sau có lợi, đường tiền bạc tốt đẹp. Đồng cung với Tả Hữu, nhờ quý nhân mà phát tài. Thiên Cơ nhập cung Tài, tính lưu động của tiền bạc tương đối lớn, nếu như tam phương cung mệnh cách cục tốt thì dễ là người làm bên Ngân hàng hay tài chính. Nếu như làm thương nghiệp, dễ buôn bán, là người trung gian.

天机落陷宫, 财少, 为求财而费力伤神, 财运不稳定, 支出频频.

Thiên Cơ lạc hãm cung, tiền ít, vì tiền mà hao tâm tốn sức, tài vận không ổn định, hay phải chiêu tiêu nhiều.

见四煞劫空, 主成败起伏, 生性浪费, 难蓄大财. 财运较差, 难以大发, 破而后成, 适合以巧艺生财, 专职技术维生. 天机太阴在寅申, 白手起起家, 先难后易, 会同时从事两种以上职业. 见禄存或化禄主富.

Gặp Tứ Sát Không Kiếp, chủ thành bại thăng trầm, bẩm sinh lãng phí, khó có thể tích lũy được nhiều tiền. Tài vận tương đối kém, khó đại phát, trước phá sau thành, thích hợp kiếm tiền nhờ các ngành kỹ nghệ, kĩ thuật chuyên môn. Thiên Cơ Thái Âm ở Dần Thân, tay trắng lập nghiệp, trước khó sau dễ, có thể cùng lúc làm 2 công việc trở lên. Gặp Lộc Tồn hoặc Hóa Lộc thì chủ phú.

天机巨门在卯酉, 闹中求财, 财运上总是多逢竞争对手, 成败多端, 财之来路多变化不定.

Thiên Cơ Cự Môn tại Mão Dậu, kiếm được tiền trong lúc loạn, hay phải đấu tranh với đối thủ trên con đường tiền bạc, thành bại đa đoan, tài vận hay thay đổi không ổn định

天机天梁在辰戌, 智谋巧计或学问技艺生财, 宜从事文化事业. 不见吉化并吉星主清贫, 逢四煞劫空, 愈加贫穷.

Thiên Cơ Thiên Lương tại Thìn Tuất, nhờ cơ mưu tính toán hoặc kĩ nghệ học vấn mà kiếm ra tiền, thích hợp làm các nghề về văn hóa. Nếu không gặp cát tinh cát hóa thì chủ thanh bần, gặp tứ Sát Không Kiếp thì càng nghèo khó.

★ 太阳
Thái Dương

太阳庙旺, 财帛丰盛, 逢遇禄存或化禄, 虽操心惟可大富. 见诸吉相助, 主富贵绵远. 与文昌文曲同宫, 财运亨通, 富贵有声名. 与左右魁钺同宫, 财旺. 加诸恶则不美. 陷地劳碌积蓄, 财来财去.

Thái Dương miếu vượng, tài bạch phong thịnh, nếu gặp Lộc Tồn hoặc Hóa Lộc, tuy thao tâm nhưng có thể đại phú. Gặp nhiều cát tinh tương trợ thì chủ phú quý lâu dài. Đồng cung với Văn Xương Văn Khúc thì tài vận hanh thông, phú quý có danh tiếng. Đồng cung với Tả Hữu Khôi Việt, tài vượng. Hội nhiều hung tinh thì không tốt. Hãm địa thì vất vả tích góp, có rồi lại hết.

太阳庙旺见煞或化忌, 虽富但支出颇巨, 财多耗散, 陷地加煞, 化忌, 主困穷. 太阳入财帛宫, 不论贫富, 皆主其人财上多耗散, 开销大, 会因绷面子, 图虚荣而花费多, 会旬空, 截空, 更验.

Thái Dương miếu vượng gặp Sát tinh hoặc Hóa Kỵ, tuy giàu nhưng hay phải xuất chi lượng tiền lớn, tiền bạc hay bị hao tán, hãm địa hội sát tinh, Hóa Kỵ chủ nghèo khó. Thái Dương nhập Tài Bạch cung, dù giàu hay nghèo đều chủ người đó hay bị tán tài, chi tiêu nhiều, hay vì thể diện, hư vinh mà tiêu pha nhiều, hội Tuần Không hay Triệt không thì càng nguy hiểm.

唯太阳在亥, 只要不与煞星同宫或加会, 亦主富, 见权禄左右, 可为巨富.

Thái Dương độc thủ ở Hợi, chỉ cần không gặp sát tinh đồng cung hoặc hội chiếu thì giàu có, gặp Quyền Lộc Tả Hữu, có thể là cự phú.

太阳太阴在丑未, 可经营多项事业, 太阴化权主富, 左右昌曲同亦富, 发财不小. 逢化忌财来财去, 加四煞劫空忌星, 聚散无常. 不见吉亦不见凶, 财运平常.

Thái Dương Thái Âm tại Sửu Mùi, có thể kinh doanh trên nhiều lĩnh vực, Thái Âm Hóa Quyền chủ Phú, Tả Hữu Xương Khúc đồng cung cũng giàu, phát tài. Nếu gặp Hóa Kỵ thì có rồi hết, hội Tứ Sát Không Kiếp Kỵ thì tán tụ vô thường. Không gặp cát tinh cũng không gặp hung tinh thì tiền bạc bình thường.

太阳巨门在寅申, 多主早年成败不一, 中晚年财帛充盈, 财利多来自外地, 经营求财上多逢竞争, 逢化禄或禄存天马主大富, 寅比申吉.

Thái Dương Cự Môn tại Dần Thân, chủ tuổi trẻ thành bại bất nhất, trung niên trở ra tiền bạc sung mãn, tiền bạc hay đến từ bên ngoài, nếu kinh doanh thì hay gặp tranh chấp, gặp Hóa Lộc hoặc Lộc Tồn Thiên Mã chủ đại phú, ở Dần tốt hơn ở Thân.

太阳天梁在卯酉, 操心生财, 富裕, 见禄存化禄主大富, 左右昌曲同宫亦吉, 有争财之事.

Thái Dương Thiên Lương tại Mão Dậu, phải thao tâm mới có tiền, giàu có, gặp Lộc Tồn Hóa Lộc thì chủ đại phú, Tả Hữu Xương Khúc đồng cung thì cũng tốt, có chuyện tranh chấp về tiền bạc.

★ 武曲
Vũ Khúc

武曲为财星, 庙旺入财帛宫, 一生财运丰足, 与禄存, 化禄, 化权, 化科, 天马同宫加会可为巨富. 武曲化禄, 大富, 又逢禄存, 巨富. 武曲化权, 大富, 更加吉星, 有巨万家资. 武曲化科主富, 加吉亦为大富.

Vũ Khúc là tài tinh, miếu vượng nhập Cung Tài bạch, cả đời tài vận phong túc, đồng cung hội chiếu với Hóa Lộc, Lộc Tồn, Hóa Quyền, Thiên Mã có thể thành cự phú. Vũ Khúc Hóa Lộc, đại phú, nếu lại gặp Lộc Tồn thì càng giàu, bậc cự phú. Vũ Khúc Hóa Quyền, đại phú, thêm cát tinh thì có nhiều tiền bạc, cỡ tỉ phú. Vũ Khúc Hóa Khoa chủ phú, hội cát tinh cũng có thể thành đại phú.

武曲守于财帛, 最怕空亡. 与四煞劫空同宫, 钱财必有大破败, 纵发一时之财, 亦必因财致祸, 多有财务纠纷, 其财不能久留, 与火铃同宫, 因财被劫. 陷地加恶煞, 荡尽家财, 负债度日. 武曲陷地, 无吉化, 不加吉, 财运不畅, 时好时坏, 东进西出.

Vũ Khúc độc thủ cung Tài bạch, sợ nhất Không Vong. Đồng cung với Tứ Sát Không Kiếp, tiền tài ắt có lần phá sản lớn, nếu nhanh chóng kiếm được tiền thì ắt vì tiền mà sinh họa, hay vì tiền mà phân tranh, mà tiền đó cũng không thể lưu giữ lâu được, đồng cung với Hỏa Linh, bị cướp tiền. Nếu hãm địa hội nhiều sát tinh thì khánh kiệt, tiền bạc đủ sống qua ngày. Vũ Khúc hãm địa không có cát tinh cát hóa thì tài vận lúc tốt lúc xấu, phải vất vả ngược xuôi.

武曲守于财帛, 大多任职于金融部, 或从事财务工作, 或是商人.

Vũ Khúc độc thủ cung Tài bạch, hay làm ở các cơ quan tài chính,hoặc làm về tài vụ, hoặc là thương nhân.

武曲在辰戌, 见科权禄或昌曲左右大富; 无吉曜相加闹中生财, 财多竞争而得, 亦可白手成家; 加煞财来财去; 与铃星文昌陀罗交会于辰戌, 主倾家荡产, 因财丧命.

Vũ Khúc tại Thìn Tuất, gặp Khoa Quyền Lộc hoặc Xương Khúc Tả Hữu thì đại phú; nếu không có cát tinh tương trợ thì kiếm tiền trong lúc loạn, hay phải tranh chấp mới kiếm đượ tiền, cũng có thể tay trắng mà lập nghiệp; hội sát tinh thì có tiền rồi hết; hội chiếu với Hỏa Linh Văn Xương Đà La ở Thìn Tuất thì chủ khuynh gia bại sản, vì tiền mà mất mạng.

武曲天府在子午, 纵不加吉, 亦主富裕. 与禄存或化禄同宫主巨富. 加左右昌曲或化科化权, 亦主大富. 加煞有起伏.

Vũ Khúc Thiên Phủ tại Tý Ngọ, nếu không có cát tinh cũng chủ giàu có. Đồng cung với Lộc Tồn hoặc Hóa Lộc thì chủ cự phú. Hội Tả Hữu Xương Khúc hoặc Hóa Khoa Hóa Quyền, cũng chủ đại phú. Hội sát tinh thì có trở ngại khó khăn.

武曲贪狼在丑未, 见火铃同宫主横发, 再见羊陀化忌, 主横发横破. 主见权禄左右亦发财. 得财先难后易, 大多三十岁前财运平常或困穷, 三十岁后有暴发机会.

Vũ Khúc Tham Lang tại Sửu Mùi, đồng cung với Hỏa Linh chủ hoạnh phát, lại gặp Dương Đà Hóa Kỵ thì chủ hoạnh phát hoạnh phá. gặp Quyền Lộc Tả Hữu cũng phát tài. Có tiền trước khó sau dễ, trước 30 tuổi tài vận thường bình thường hoặc nghèo khó, sau 30 tuổi có cơ hội hoạnh phát.

武曲天相在寅申, 主富, 财运丰厚, 见科权禄马大富. 若加煞, 则技艺百工生财.

Vũ Khúc Thiên Tướng tại Dần Thân, chủ phú, tài vận phong mãn, gặp Khoa Quyền Lộc Mã thì đại phú. Nếu hội sát tinh thì nhờ kĩ nghệ mà phát tài.

武曲七杀在卯酉, 其人浪费金钱, 但可白手起家, 禄存或化禄同宫, 可横发大富. 不加吉财来财去. 加煞化忌, 挥霍无度, 因财持刀, 必因争财而致灾祸刑讼, 纵然暴发亦必暴败.

Vũ Khúc Thất Sát tại Mão Dậu, là người hoang phí, nhưng có thể tay trăng lập nghiệp. Đồng cung với Hóa Lộc hoặc Lộc Tồn, có thể hoạnh phát đại phú. Không có cát tinh thì có tiền rồi lại hết. hội sát tinh Hóa Kỵ, tiêu pha vô độ, vì tiền mà dẫn tới tai họa hình tù, bạo phát ắt cũng bạo phá.

武曲破军在巳亥, 其人浪费金钱, 支出频频. 陀罗, 化忌, 劫空, 火, 铃同值, 钱财东收西散, 到手成空. 逢吉曜先无后有, 亦可发财, 但仍主财运起伏.

Vũ Khúc Phá Quân tại Tị Hợi, là người hoang phí tiền bạc, hay phải xuất tiền nhiều. Đà La, Hóa Kỵ, Không Kiếp, Hỏa Linh đồng cung hay hội chiếu thì có kiếm được nhưng lại tiêu hết vào việc khác, đến được tay thì chẳng còn gì. Nếu gặp cát tinh thì trước không sau có, cũng có thể phát tài, nhưng vẫn chủ tiền bạc lên xuống thay đổi thất thường.

★ 天同
Thiên Đồng

大多为白手成家, 财帛晚聚, 有金银宝贝或 董蓄积. 天同主福, 淡泊金钱, 能安于清贫, 在求财怠于劳力, 并不积极, 但仍有不劳而获的运气出现, 或有长期稳定的收入. 命宫有吉星, 其财得来轻松, 并不费力. 天同见禄存或化禄天马, 众吉加会, 始主经商大富, 否则平常. 与昌曲同度, 财路清高平稳. 与左右, 魁钺同度, 财上多助力. 庙旺加煞, 财运好坏不定, 发而又败. 居陷地一生多破耗贫穷, 加四煞刑忌, 财运困乏, 时有时无, 为百工技艺, 三教 流方生财成家, 只是不能致富.

Đại đa số thường là tay trắng lập nghiệp, tiền bạc về sau mới tụ, có tiền bạc châu báu hoặc có tích trữ. Thiên Đồng chủ phú, ít tiền thì có thể sống cuộc sống thanh bần, khi cầu tiền bạc thì ít phải lao động tốn công sức, cũng không tích cực, nhưng vẫn có số không làm mà được hưởng, thu hoạch, hoặc có thu nhập ổn định. Mệnh cung có cát tinh, thì tiền bạc thoải mái, không tốn nhiều công sức. Thiên Đồng gặp Lộc Tồn hoặc Hóa Lộc Thiên mã, nhiều cát tinh gia hội, chủ kinh doanh đại phú, nếu không bình thường. Đồng độ Xương Khúc, con đường tiền bạc thanh cao bình ổn. Đồng độ với Tả Hữu, Xương Khúc, có sự giúp đỡ về tiền bạc. Miếu vượng gia sát tinh, tài vận tốt xấu bất định, phát rồi lại bại. Cư đất hãm địa thì 1 đời hay thất bại tổn hao nghèo khó, gia Tứ Sát Hình Kỵ thì tài vận thiếu thốn, lúc có lúc không, làm về kĩ nghệ, tha phương lập nghiệp kiếm tiền, chỉ có điều không thể coi là giàu được.

天同太阴在子午, 时有意外之财, 庙旺或见禄存吉化财旺, 尤多不动产. 陷地加煞化忌, 财运欠稳, 成败进退.

Thiên Đồng Thái Âm ở Tý Ngọ, có lúc có tiền ngoài dự kiến, miếu vượng hoặc gặp Lộc Tồn cát hóa thì tài vượng, có nhiều bất động sản. Hãm địa gia sát tinh Hóa Kỵ, tài vận thiếu sự ổn định, thành bại tiến thoái bất nhất.

天同巨门在丑未, 多为经商之辈. 财来财去, 钱财难聚, 时好时坏, 主辛苦劳碌白手兴家, 并不顺畅, 中年后始感如意, 惟见权禄并吉星始富.

Thiên Đồng Cự Môn tại Sửu Mùi, thường là người kinh doanh thương mại. Tiền có rồi hết, tiền tài khó tụ, lúc tốt lúc xấu, chủ gian khổ vất vả tay trắng làm hưng thịnh gia nghiệp, nhưng không thuận lợi, sau trung niên bắt đầu cảm thấy vừa ý, nếu gặp Quyền Lộc hay cát tinh thì bắt đầu giàu.

天同天梁在寅申, 先贫后富, 多数白手起家, 以学问, 技术招财, 一般财运稳定. 加吉化并吉星主富, 异乡发财.

Thiên Đồng Thiên Lương tại Dần Thân, tiền bần hậu phú, thường tay trắng lập nghiệp, kiếm tiền dựa vào học vấn, kĩ thuật. Tài vận tương đối ổn định. Gia cát tinh cát hóa thì chủ phú, phát tài nơi đất khách.

★ 廉贞
Liêm Trinh

入庙旺之地, 财帛丰盈, 闹中生财, 求财多在竞争是非中得, 廉贞化禄, 财运亨通, 大富, 再逢禄存天马为巨商之命. 昌曲同宫, 富. 魁钺同宫, 求财多遇贵人. 陷宫多败少成, 聚散无常, 加耗劫刑忌, 每于官非中破财, 廉贞化忌, 必大破无疑.

Vào đất miếu vượng, thì tiền bạc sung túc, kiếm được tiền trong lúc loạn, thường trong lúc tranh chấp thị phi mà phát tài. Liêm Trinh Hóa Lộc, tài vận hanh thông, đại phú. Nếu lại gặp Lộc Tồn Thiên Mã thì có số làm cự thương. Đồng cung với Xương Khúc thì phú. Đồng cung với Khôi Việt thì hay gặp quý nhân. Hãm địa thì bại nhiều thành ít, tụ tán vô thường, gia Hao Kiếp Hình Kỵ thì hay vì kiện tụng mà phá tài, Liêm trinh Hóa Kỵ tất đại phá.

凡廉贞入财帛, 颇多耗费, 易惹词讼破财, 或被人侵吞偷盗, 尤与辅弼同宫, 易遭偷盗之事. 见火铃羊陀空劫, 财物虚掷浪费.

Liêm Trinh nhập cung Tài Bạch, hay hao phí, vì kiện cáo mà hao tài, hoặc bị ăn cắp cướp giật tài sản, đặc biệt khi đồng cung với Phụ Bật thì dễ có chuyện mất trộm đồ. Gặp Hỏa Linh Kình Dương Không Kiếp, tài vật hư hao lãng phí.

廉贞天府在辰戌, 财旺, 无吉亦小康, 会禄存, 化禄大富, 加左右昌曲亦富. 加四煞劫空财路不畅, 终有破败. 廉贞贪狼在巳亥, 横成横破, 尤喜见火铃同宫横发暴富, 禄存化禄同宫亦富奢. 无吉星加会, 辛苦劳碌中求财, 主贫穷度日.

Liêm Trinh Thiên Phủ tại Thìn Tuất, tài vượng, nếu không có cát tinh thì cũng khá, hội Lộc Tồn, Hóa Lộc đại phú, gia Tả Hữu Xương Khúc cũng giàu. Gia Tứ Sát Không Kiếp tài lộ không bằng phẳng, trong đời có lần phá sản. Liêm Trinh Tham Lang tại Tỵ Hợi, hoạnh phát hoạnh phá, đặc biệt thích Hỏa Linh đồng cung vì có thể hoạnh phát bạo phú, đồng cung với Lộc Tồn Hóa Lộc cũng giàu có. Nếu không có cát tinh gia hội thì vất vả gian khổ mới kiếm được tiền, chủ vất vả mưu sinh qua ngày.

廉贞天相在子午, 富裕, 逢吉化并吉星大富, 宜为商贾. 逢四煞空劫化忌困穷, 破败.

Liêm Trinh Thiên Tướng tại Tý Ngọ, giàu có, nếu gặp cát tinh cát hóa thì đại phú, có thể là cự thương. Gặp Tứ Sát Không Kiếp Hóa Kỵ thì nghèo khó, phá sản.

廉贞七杀在丑未, 加吉星大富, 不加吉, 手艺求财, 见凶星, 财寡, 纵发也会大破败, 四煞冲破, 贫穷. 未比丑吉.

Liêm Trinh Thất Sát tại Sửu Mùi, gia cát tinh thì cát hóa, nếu không có cát tinh thì kiếm tiền dựa vào tài thủ công mỹ nghệ. Gặp hung tinh, tiền bạc ít, nếu có phát thì cũng sẽ đại phá sản, Tứ Sát xung phá, nghèo khó. Ở Mùi tốt hơn ở Sửu.

廉贞破军在卯酉, 一生财多成多败, 宜见好就收. 加会吉星, 遇禄存化禄或命宫有火铃主横发暴富. 无吉星同宫, 主财运平常, 遇擎羊空劫大耗, 贫无立锥.

Liêm Trinh Phá Quân tại Mão Dậu, tiền bạc trong đời thành nhiều bại cũng nhiều. Gia hội cát tinh, gặp Lộc Tồn Hóa Lộc hoặc mệnh cung có Hỏa Linh chủ hoạnh phát bạo phú. Nếu không có cát tinh đồng cung thì chủ tài vận bình thường, gặp Kình Dương Không Kiếp Đại Hao, thì nghèo.

★ 天府
Thiên Phủ

天 府为财库, 入财帛宫, 不论庙旺平闲, 皆主财帛富足丰盈, 并多有不动产. 与左右昌曲魁钺诸吉加会或同宫, 主利路平稳, 大富之命, 或在金融界担任官职. 与禄存, 化禄, 武曲, 紫微同宫加会, 亦主富奢. 天府守于财帛, 宜多置不动产. 能守财, 喜好储蓄, 动用金钱颇有计划, 擅长理财, 与禄存同宫虽富有, 但吝啬.

Thiên Phủ là tài tinh, nhập cung Tài Bạch, dù miếu vượng hay bình hòa, đều chủ tiền bạc đầy đủ sung túc, có nhiều bất động sản. Gia hội hoặc đồng cung với các cát tinh Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt thì chủ thuận lợi bình ổn, sống cuộc sống đầy đủ giàu có, hoặc đảm nhiệm công việc liên quan đến tài chính tiền tệ. Đồng cung gia hội với Lộc Tồn, Hóa Lộc, Vũ Khúc, Tử Vi thì cũng chủ giàu có. Thiên Phủ nhập cung Tài Bạch, dễ có nhiều bất động sản. Có thể giữ được tiền, thích tích lũy, có tiền bạc và chi tiêu có kế hoạch, biết quản lý tiền, đồng cung với Lộc Tồn thì tuy giàu có nhưng keo kiệt.

天府四煞劫空耗忌, 成败不一, 财上多是非. 虽有旺财但破耗甚大, 多意外开销. 与截空, 旬空, 劫空同度, 则为空库, 财运不旺, 进必有出, 且易耗散. 入平闲之宫, 先难后易, 中晚年始获厚利.

Thiên Phủ Tứ Sát Không Kiếp Hao Kỵ, thành bại bất nhất, hay gặp thị phi về tiền bạc. Tuy có tiền nhưng hao phá nhiều, hay phải chi tiều ngoài dự kiến. Đồng độ Tuần Không, Triệt Không, Không Kiếp thì tài vận không thịnh, ắt hay phải tiêu pha, dễ hao tán tiền. Nhập cung bình hòa thì trước khó sau dễ, trung niên trở ra bắt đầu có thu hoạch, có lợi.

★ 太阴
Thái Âm

太 阴化富, 为财帛田宅主, 入财帛宫适得其所, 相对而言其财较为平稳, 庙旺财多. 陷地主财薄, 但仍须与同宫或加会之星曜相参方能定其贫富. 太阴庙旺, 富足多财, 遇禄存, 辅弼, 昌曲, 主大富, 再见吉化, 为富豪之命. 陷地成败难聚, 见吉化并吉星同值亦主富裕; 不遇吉星, 再加四煞刑忌辛苦中生财. 太阴庙旺, 早发, 犹多不动产, 陷地财运晚生. 与化禄或禄存同宫, 大富; 太阴化权, 大富, 善以财生财; 与左右魁钺同宫, 财运经久不衰; 与文昌文曲同宫, 以 艺招财, 富而有声名. 若科权禄左右昌曲魁钺会聚三方四正, 富可敌国, 贵不可言.

Thái Âm hóa phú, chủ về tiền bạc đất đai, nhập cung Tài bạch là thích hợp, tiền bạc tương đối ổn định, miếu vượng thì nhiều tiền. Hãm địa thì chủ ít tiền nhưng phải dựa vào các sao đồng cung hoặc gia hội thì mới có thể luận giàu nghèo. Thái Âm miếu vượng, giàu có sung túc, găp Lộc Tồn, Phụ Bật, Xương Khúc, chủ đại phú, nếu được cát tinh cát hóa thêm thì có số phú hào, giàu có lớn. Hãm địa thì thành bại khó tụ, gặp cát tinh cát hóa đồng chiếu cũng chủ giàu có. nếu không gặp cát tinh, lại gia Tứ Sát Hình Kỵ thì khó khăn mới kiếm được tiền. Thái Âm miếu vượng, sớm phát, nhiều bất động sản, hãm địa tài vận về sau mới có. Đồng cung với Hóa Lộc hoặc Lộc Tồn, đại phú. Thái Âm Hóa Quyền, đại phú, thường thì tiền mẹ sinh ra tiền con. Đồng cung với Tả Hữu Khôi Việt, tài vận kéo dài lâu không bị suy thoái. Đồng cung với Xương Khúc thì kiếm tiền nhờ kỹ nghệ, giàu mà có tiếng tăm. Nếu như Khoa Quyền Lộc Tả Hữu Xương Khúc Khôi Việt hội tụ ở tam phương tứ chính thì giàu có cỡ quốc gia, quý không để đâu cho hết.

庙旺化忌不忌, 若先贫日后也必富. 陷地化忌, 破财多非. 火铃羊陀同度, 破财不免.

Miếu địa không sợ Hóa Kỵ, nếu trẻ nghèo khó thì sau tất sẽ giàu. Hãm Địa Hóa Kỵ, phá tài lại nhiều thị phi. Hỏa Linh Dương Đà đồng độ, khó tránh phá tài.

★ 贪狼
Tham lang

入庙旺之地横发, 时有意外之财及偏财收入. 见火铃同宫, 暴富, 三十岁前多成败, 三十岁后猛进资财. 贪狼与禄存, 化禄, 火星, 铃星同宫或会照, 为富豪之命. 不见禄存化禄化权及火铃, 并无希望大发. 陷地贫困, 加空劫耗忌, 穷乏不堪.

Nhập đất miếu vượng thì hoạnh phát, có lúc có tiền ngoài dự kiến. Đồng cung với Hỏa Linh, bạo phú, trước 30 tuổi thành bại đều nhiều, sau 30 tuổi thì bắt đầu có tài sản. Tham Lang đồng cung hoặc hội chiếu với Lộc Tồn, Hóa Lộc, Hỏa Linh thì có số giàu bậc phú hào. Nếu không gặp Lộc Tồn Hóa Lộc Hóa Quyền và Hỏa Linh thì không có hi vọng đại phát. Hãm địa thì nghèo, gia Không Kiếp Hao Kỵ thì nghèo khó thiếu thốn.

凡贪狼入财帛宫, 皆主生性浪费, 一生破耗不小, 财运多有起伏. 若不加吉, 主过路财神, 东进西出, 财运欠稳, 时好时坏. 与羊陀空劫大耗同度, 必赌博倾家, 或因投机而招大破败, 与桃花星 ( 红鸾, 天喜, 沐浴, 天姚, 廉贞 ) 加会, 为美色而破财遭灾, 宜赚娱乐之财, 异性之财, 或经营色情行业, 以求趋避. 贪狼化忌, 财多破败, 并有官讼纠纷.

Hễ Tham Lam nhập cung Tài Bạch đều chủ bẩm sinh lãng phí, cả đời tiêu pha không ít, tài vận hay có nhiều thay đổi. Nếu như không có thêm cát tinh, chủ kiếm được tiền rồi lại phải tiêu tốn vào việc khác, tài vận không ổn định, lúc tốt lúc xấu. Đồng độ với Dương Đà Không Kiếp thì hay cờ bạc hoặc vì đầu cơ mà phá sản lớn, gia hội với Đào hoa tinh (Hồng Loan, Thiên Hỉ, Mộc Dục, Thiên Diêu, Liêm Trinh) thì vì sắc đẹp mà hao tài gặp họa, dễ kiếm tiền từ người khác phái hoặc tiền từ vui chơi giải trí, hoặc kinh doanh các ngành có liên quan đến sắc đẹp… Tham Lang Hóa Kỵ, tiền bạc hay bị phá tán, có tranh chấp kiện tụng.

多为经商之客, 宜从事冒险或投机事业, 或者同时经营多种事业, 且财路上多受异性之助, 与左右魁钺同宫或加会更验. 昌曲同宫, 外华内虚, 成败不一.

Thường là người kinh doanh, dễ làm các công việc mạo hiểm hoặc đầu tư, hoặc cùng lúc kinh doanh nhiều thứ, hay nhận được sự giúp đỡ của người khác phái về tiền bạc, đồng cung hoặc gia hội với Tả Hữu Khôi Việt càng rõ. Xương Khúc đồng cung, ngoài hào hoa mà trong thì hư hao, thành bại bất nhất.

★ 巨门
Cự Môn

巨门主是非, 乃口舌争斗之星, 入财帛宫, 闹中生财, 凭口才与脑力, 多系竞争口舌及争夺而来, 且主辛劳异常, 成败不一, 小人不足, 加遇众吉星, 主先难后易. 巨门化权, 化禄或与禄存同宫主大富. 昌曲同宫, 必是先出名而后得利. 左右魁钺同宫, 多受贵人助力, 财利平稳, 口舌不免.

Cự Môn chủ thị phi, là sao chỉ tranh đấu khẩu thiệt, nhập cung Tài Bạch, kiếm tiền trong lúc loạn, dựa vào tài ăn nói và đầu óc, nhờ vào tranh chấp ăn nói mà có, thường chủ vất vả lao động khắc thường, thành bại bất nhất, không làm vừa lòng kẻ tiểu nhân, nếu gặp thêm cát tinh thì chủ trước khó sau dễ. Cự Môn đồng cung với Hóa Quyền, Hóa Lộc hoặc Lộc Tồn thì chủ đại phú. Xương Khúc đồng cung thì tất có danh tiếng rồi có lợi sau. Tả Hữu Khôi Việt đồng cung, thường nhận được sự giúp đỡ của quý nhân, tiền bạc thuận lợi bình ổn, nhưng khó tránh khẩu thiệt.

巨门居于陷地, 求财辛苦, 仍可得, 只是不富. 加四煞空劫, 主贫穷度日, 金钱常遭意外损失, 易起官非刑讼, 或因天灾人祸而破耗. 巨门化忌, 主竞争是非, 求财多咎, 并不亨快, 防遭大破.

Cự Môn cư đất hãm địa, tiền bạc khó cầu, tuy nhiên vẫn có thể có, chỉ là không giàu. Gia Tứ Sát Không Kiếp, chủ nghèo khó sống qua ngày, tiền bạc thường hay bị hao tổn thất thoát ngoài ý muốn, dễ sinh chuyện kiện tụng hình tù hoặc vì thiên tai hay nhân họa mà hao phá. Cự Môn Hóa Kỵ. chủ tranh chấp thị phi, hay gặp tai họa về tiền bạc mà không được hưởng sớm, nếu không dễ đại phá.

巨门守财帛宫, 若其人傲气十足, 目中无人, 自以为是, 则必遭横破, 钱财遭同事亲友算计.

Cự Môn thủ cung Tài Bạch, người kiêu ngạo, tự cho trời bằng vung, tất sẽ hoạnh phá, tiền bạc hay tính toán với bạn bè đồng nghiệp.

★ 天相
Thiên Tướng

庙 旺财帛丰足, 与禄存同宫最吉, 或与化禄同宫, 皆主大富, 与左右同宫亦富, 与昌曲同宫主财名皆佳. 陷地劳中生财, 白手成家, 加吉星中晚年方有家业. 加四煞, 劫空, 刑, 忌, 成败多端, 极难聚积. 羊, 陀, 火, 铃之一同宫, 贫乏, 四煞同会, 主大破败, 贫苦至极. 若吉凶混杂, 成败不一. 陷地加煞多因文书麻烦而破财.

Miếu vượng thì tiền bạc đầy đủ, đồng cung với Lộc Tồn là tốt nhất, hoặc đồng cung với Hóa Lộc cũng chủ đại phú, đồng cung với Tả Hữu cũng giàu, đồng cung với Xương Khúc thì chủ danh tiếng tiền bạc đều tốt. Hãm địa thì trong khi lao động mới có tiền, tay trắng lập nghiệp, gia cát tinh thì trung niên trở ra có sự nghiệp. Gia Tứ Sát Không Kiếp Hình Kỵ thì thành bại đa đoan, rất khó tích lụ tiền. Đồng cung với 1 trong Dương Đà Hỏa Linh thì nghèo, Tứ Sát đồng hội thì chủ đại phá sản, nghèo khổ cùng cực. Nếu như cát hung tinh hỗn tập thì thành bại bất nhất. Hãm địa gia sát tinh thì vì vấn đề sổ sách mà phá sản.

★ 天梁
Thiên Lương

天梁乃清高之星, 并不主财. 凡天梁入财帛, 多在公家机关任职而领取薪金, 得财并不艰难. 但其人必重名甚于重利, 故常有为人作嫁的情形出现, 甚至常为他人之事而奔波耗财, 在财运上有名无实, 最劣者还会将送上来的财运拒之门外. 若庙旺财帛富足, 与禄存, 化禄, 太阴同宫会照, 主大富, 遇科权左右昌曲吉星尤美, 主大富和大贵.

Thiên Lương là sao thanh cao, nhưng không chủ tiền tài. Thấy Thiên Lương nhập cung Tài Bạch, thường làm việc lĩnh lương ở các cơ quan công ty, có tiền mà không khó khăn mấy. Nhưng danh nhiều hơn lợi, nên thường xuất hiện tình trạng gánh tội cho người khác, thậm chí vì chuyện của người khác mà tất tả hao phí tiền của, về tiền bạc hữu danh mà vô thực, thậm chí cự tuyệt tiền bạc do người khác biếu tặng. Nếu như miếu vượng địa thì tiền bạc sung túc, đồng cung hội chiếu với Lộc Tồn, Hóa Lộc, Thái Âm thì chủ đại phú, nếu gặp Khoa Quyền Tả Hữu Xương Khúc thì rất đẹp, chủ đại phú và đại quý.

天梁化禄或化权, 可赚赌财, 有煞星同值, 好赌, 但赌运不畅.

Thiên Lương Hóa Lộc hoặc Hóa Quyền, có thể kiếm được tiền từ cá độ, cờ bạc, có sát tinh đồng chiếu, thích cờ bạc nhưng cờ bạc thường không thuận.

天梁庙旺加四煞劫空, 财运平常, 并不主富. 天梁化禄或与禄存同宫, 虽富有, 但反增困, 会将自己钱财散与亲友和弱者. 与昌曲同宫, 先名后利, 以学问技术得财. 左右同宫, 财运平稳.

Thiên Lương miếu vượng gia Tứ Sát Không Kiếp, tài vận bình thường, không chủ phú. Thiên Lương đồng cung với Hóa Lộc hoặc Lộc Tồn, tuy giàu có nhưng từng có lúc khó khăn, sẽ bỏ tiền bạc của mình chia sẻ với bạn bè hoặc kẻ yếu hơn. Đồng cung với Xương Khúc, trước có danh sau có lợi, dựa vào tài học vấn, kỹ thuật mà kiếm được tiền. Tả Hữu đồng cung thì tài vận bình ổn.

陷地又不加吉, 辛苦求财, 若加四煞, 财务透支, 东挪西借, 求财先难后易, 但收入仅足度日.

Hãm địa lại không gia cát tinh thì chủ khó khăn về tiền bạc, gia thêm Tứ Sát, thiếu thốn tiền, hay phải vay mượn khắp nơi, kiếm tiền trước khó sau dễ, nhưng thu nhập chủ đủ sống qua ngày.

★ 七杀
Thất Sát

入庙旺闹中生财, 在寅申子午, 有意外财运, 纵不加吉, 也主横发. 七杀与禄存, 化禄, 化权, 化科同宫加会, 为富豪之命, 商界奇, 赚钱的能力过人. 左右魁钺同宫, 财旺并受贵人助力. 文昌文曲同宫, 富裕, 一朝横发.

Nhập miếu vượng thì kiếm tiền trong lúc loạn, ở Dần Thân Tý Ngọ, có tiền ngoài dự kiến, nếu không có thêm cát tinh thì chủ hoạnh phát. Thất Sát đồng cung gia hội với Lộc Tồn, Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa thì có số giàu cỡ phú hào, có khả năng kiếm tiền hơn người, hay là người kì tài của giới thương nghiệp. Đồng cung với Tả Hữu Khôi Việt, nhận đượ sự giúp đỡ của quý nhân về tiền bạc. Đồng cung bới Văn Xương Văn Khúc thì giàu có, có xu hướng hoạnh phát.

七杀入财帛, 来得快去得也快, 大多属过路财神. 人命逢之都有轻财浪费倾向, 毫无节约思想, 不看重蝇头小利. 七杀主暴发暴败, 纵加吉曜, 亦有倾颓之时, 尚能东山再起, 若加诸恶煞, 则难以重振雄风, 恢复元气. 与羊陀火铃同宫, 浪掷金钱, 成败起伏, 天灾人祸不断, 钱财破耗极大, 令人苦恼不已. 闲宫加四煞劳力求财, 四煞劫空刑忌会照, 一世奇穷.

Thất Sát nhập cung Tài bạch, tiền bạc đến nhanh đi cũng nhanh. Người này có xu hướng coi nhẹ tiền bạc, tiêu xài lãng phí, không có tư tưởng tiết kiệm, không coi trọng những cái lợi nhỏ. Thất Sát chủ bạo phát bạo phá, nếu gia cát tinh thì cũng có lúc giàu có, nếu gia nhiều hung sát tinh thì khó vượt qua được sóng gió để hồi phục lại. Đồng cung với Dương Đà Hỏa Linh, lãng phí tiền bạc, thành bại thay đổi thăng trầm, hay gặp họa do người hay thiên tai, tiền bạc tiêu hoa cực lớn, dẫn đến tình trạng khổ sở phiền não. VÀo cung bình hòa gia Tứ Sát thì nhờ sức lao động mà kiếm tiền, Tứ Sát Không Kiếp Hình Kỵ hội chiếu thì 1 đời nghèo khó.

★ 破军
Phá Quân

居庙旺之地, 逢左右, 禄存, 化禄, 化权并吉星多者, 一发如雷, 为巨富之命. 于子午宫, 多有金银宝贝, 玩字画蓄积, 见昌曲同宫, 主外华内虚, 看起来象个大款, 其实欠人一屁股债.

Cư đất miếu vượng, nếu gặp nhiều cát tinh Tả Hữu, Lộc Tồn, Hóa Lộc, Hóa Quyền thì nhất phát như lôi, có số cự phú. Ở cung Tý Ngọ thì thường tích nhiều vàng bạc châu báu, đồng cung với Xương Khúc thì ngoài hào hoa trong thì hư hao, nhìn bên ngoài giống như một đại gia nhưng kì thực là một kẻ nợ nần.

破军入财帛宫, 求财多是先破后赚, 但主人金钱耗费甚大, 为人有浪费倾向. 多投机取巧, 或经营冒险事业致富, 纵然加吉, 一生财运亦非顺畅. 不遇吉星, 有四煞同宫多主贫困. 与羊陀同宫, 即使发财亦会出现大破败. 与火铃同宫, 主横成横破, 财运起伏. 与劫空同宫, 必主贫穷, 若投机则最终会倾家荡产. 与文昌或文曲同宫, 却为凶兆, 为财寡清贫之象, 纵一时拥有, 终究是过手之财, 绝不能积蓄, 最终招穷, 而致贫困. 化忌同宫, 意外耗财, 并有争斗冲突与官非. 不论贫富, 其人之财运均不安定, 多频频转职或改变经营种类, 于开创更新中得财.

Phá Quân nhập cung Tài Bạch, thường trước trước phá sau mới kiếm được tiền, nhưng là người hay tiêu hao tiền bạc nhiều, có khuynh hướng lãng phí. Hay đầu cơ trục lợi, hoặc kinh doanh mạo hiểm mà giàu có, nếu không có thêm cát tinh thì 1 đời tài vận cũng không thuận lợi. Nếu không gặp cát tinh mà gặp Tứ Sát đồng cung thì chủ nghèo khó. Đồng cung với Dương Đà, tuy phát tài nhưng cũng sẽ có lúc đại phá sản. Đồng cung với Hỏa Linh, chủ hoạnh phát hoạnh phá, tài vận thăng trầm. Đồng cung với Không Kiếp, tất chủ nghèo khổ, nếu đầu cơ thì cuối cùng có thể dẫn đến cảnh khuynh gia bại sản. Đồng cung với Văn Xương hoặc Văn Khúc thì là điềm xấu, ít tiền sống cuộc sống thanh bàn, nếu 1 lúc nào đó có tiền thì cũng sẽ nhanh chóng trượt khỏi tay, tuyệt đối không thể tích lũy được, cuối cùng thì dẫn đến cảnh nghèo khó. Hóa Kỵ đồng cung, hao tài ngoài ý muốn, có sự tranh chấp xung đột và kiện tụng. Dù giàu hay nghèo, tài vận cũng không ổn định, hay phải thay đổi công việc hoặc thay đổi chủng loại kinh doanh, chuyển sang những gì càng mới mẻ thì sẽ có tiền.

破军居巳亥陷地, 其财易散难聚, 东倾西败, 如武曲会吉辛苦得财, 横成横破, 忌刑劫.

Phá Quân cư Tị Hợi hãm địa, tiền bạc dễ tán mà khó tụ, hay thất bại, như Vũ Khúc hội cát tinh thì vất vả kiếm được tiền, hoạch phát hoạnh phá, Hình Kỵ Kiếp. (?)

破军在寅申若无辅弼禄存及权禄同度, 为财薄之人, 且不聚财, 加昌曲或劫空火铃陀罗, 穷困潦倒. 辰戌宫之破军, 惟加会辅弼禄存或化禄始发, 不然亦主贫穷, 求财艰辛.

Phá Quân tại Dần Thân nếu như không có Phụ Bật Lộc Tồn và Quyền Lộc đồng độ thì là người ít tiền, không tụ tài, gia Xương Khúc hoặc Không Kiếp Hỏa Linh Đà La thì nghèo khổ. Phá Quân ở cung Thìn Tuất, nếu gia hội Phụ Bật Lộc Tồn hoặc Hóa Lộc thì bắt đầu phát, nếu không cũng chủ nghèo, kiếm tiền khó khăn.

★ 文曲, 文昌
Văn Xương, Văn Khúc

居庙旺之地, 得众吉同宫或加会主富足, 并可得贵人之财, 财名皆旺, 先名后利, 财运顺遂久远. 加四煞空劫刑忌东来西去, 难聚积, 为贫寒之士.

Cư đất miếu vượng, được nhiều cát tinh đồng cung hoặc gia hội thì chủ giàu có sung túc, có thể nhận được tiền bạc từ quý nhân, danh tài đều có, trước có danh sau có lợi, tài vận thuận lợi mà lâu dài. Gia Tứ Sát Không Kiếp Hình Kỵ thì hay bôn ba, khó tích tụ tiền, là người nghèo.

★ 左辅, 右弼
Tả Phụ, Hữu Bật

诸宫得吉星守照, 主财帛丰足, 顺遂久远, 有经营多项事业的迹象, 可得贵财, 加四煞空劫耗忌, 成败多端而难聚.

Nếu cung được nhiều cát tinh thủ chiếu thì tiền bạc đầy đủ, thuận lợi lâu dài, có dấu hiệu kinh doanh nhiều hạng mục, có thể nhận được tiền bạc của quý nhân, gia Tứ Sát Không Kiếp Hao Kỵ thì thành bại đa đoan mà khó tụ tiền.

★ 天魁, 天钺
Thiên Khôi, Thiên Việt

清高中生财, 钱财方面多遇贵人相助, 并得人缘, 遇到困难有人解救, 度过难关.

Phát tài trong sự thanh cao, về phương diện tiền bạc hay được quý nhân giúp đỡ, được lòng người khác, khi gặp khó khăn có người giúp mà vượt qua được.

★ 禄存
Lộc Tồn

主人生性节约, 擅理财. 主富足, 财积仓箱, 加众吉美不胜收, 堆金积玉, 不待劳而财自足. 加火铃劳中生财, 遇空劫有亦如无, 逢化忌吉处藏凶, 必有破败.

Chủ người bản tính bẩm sinh tiết kiệm, biết quản lý tài chính. Chủ giàu có sung túc, tiền bạc tích trữ được, gia nhiều cát tinh thì tốt, cất giữ tiền bạc châu báu, không phải làm việc mà tiền vẫn đầy đủ. Gia Hỏa Linh thì lao động mới phát tài, gặp Không Kiếp thì có cũng như không, gặp Hóa Kỵ thì trong cái tốt tiềm ẩn cái xấu, tất có lần phá sản.

★ 擎羊, 陀罗
Kình Dương, Đà La

主人生性浪费, 不善理财. 庙旺闹中生财, 陷地辛勤不聚, 加火铃东来西去, 终身不能发达, 加空劫耗忌, 必然贫困奇穷.

Chủ người bẩm sinh lãng phí, không giỏi quản lý tiền bạc. Miếu vượng thì kiếm được tiền trong lúc loạn, hãm địa thì làm việc vất vả mà không tụ tài, gia Hỏa Linh thì hay bôn ba, cả đời không thể phát đạt được, gia Không Kiếp Hao Kỵ tất nghèo khó.

★ 火星, 铃星
Hỏa Tinh, Linh Tinh

主人生性浪费, 不善理财. 入庙独守, 或入庙吉星守照, 横发横破, 陷地劳苦生财, 仍主贫. 加羊陀贫穷. 遇空劫耗忌, 赤贫, 食宿俱无.

Chủ người bẩm sinh lãng phí, không giỏi quản lý tiền bạc. Nhập miếu độc thủ, hoặc nhập miếu có cát tinh thủ chiếu thì hoạnh phát hoạnh phá, hãm địa thì lao động vất vả mới có tiền, vẫn chủ nghèo. Gia Dương Đà nghèo khó. Gặp Không Kiếp Hao Kỵ thì thiếu thốn đủ điều, nghèo khổ.

★ 天空, 地劫
Thiên Không (Địa Không), Địa Kiếp

主人生性浪费, 不善理财, 一生支出破耗, 财多得而复失, 有财不聚. 与凶星落陷同守, 财运极差, 纵然万分节约也不能富有, 有吉星入庙加吉化守照祸轻, 但虚耗不免.

Chủ người bẩm sinh lãng phí, không giỏi quản lý tiền bạc, trong đời hay phải bỏ tiền nhiều, kiếm được tiền rồi lại hết, không tụ tiền. Đồng cung với hung tinh lạc hãm thủ thì tài vận cực kém, dù có chi tiêu tiết kiệm mấy vẫn không thể giàu được, có cát tinh nhập miếu cát hóa trấn thủ thì họa nhẹ nhưng khó tránh hư hao.

★ 化禄
Hóa Lộc

赚钱能力强, 财运亨通, 并多意外之财, 一生绝无困乏时日.

Năng lực kiếm tiền tốt, tài vận hanh thông, hay có tiền ngoài dự kiến, trong đời chắc chắn không bị thiếu thốn.

★ 化权 .
Hóa Quyền

赚钱能力强, 财旺, 擅理财, 财富自勤俭和踏实经营而来

Năng lực kiếm tiền tốt, tài vượng, biết quản lý tiền bạc, tiền bạc kiếm được giàu có do tự cần mẫn lao động hoặc kinh doanh chính đáng.

★ 化科

Hóa Khoa

财运旺, 有侥幸之财, 或因名得利.
Tài vận thịnh, có chuyện vui về tiền bạc hoặc nhờ có danh tiếng mà được lợi.

★ 化忌
Hóa Kỵ

财运不佳, 财利难求, 是财薄, 破败, 劳碌, 竞争, 口舌, 是非, 不顺, 起伏等等诸多恶运的显示. 须与同宫之星宿参详而定.
Tài Vận không đẹp, có nhiều dạng vận xấu: ít hoặc thiếu tiền, phá sản, tranh chấp, lao động vất vả, khẩu thiệt, thị phi, không thuận lợi, thăng trầm… Cần phải xét các sao đồng cung kĩ càng mới có thể định được.

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Bảy 26, 2012 in Nghiên cứu Tử Vi

 

Bình giải các cách tử vi – CÁCH HIẾM MUỘN CON – NHỮNG SAO HIẾM CON

1. Cách hiếm muộn qua các sao:

a. Các chính tinh ở cung Tử:

Vũ Khúc: dù đắc địa hay hãm địa, Vũ Khúc chỉ sự cô độc, ít oi. ở thế hãm địa, con sinh ra càng khó nuôi và tốn kém lúc nuôi dưỡng. ý nghĩa hiếm muộn càng rõ rệt hơn nếu Vũ nằm ở cung Tử của nữ số. Đi với Thất Sát thì càng ít con hơn, khả dĩ tuyệt tự. Nếu có thì còn cũng có tật hoặc hoang đàng, cha mẹ không nhờ vả được. Dù đi với Thiên Tướng cũng còn hiếm con. Đi với Phá Quân may ra được hai con nhưng không thể có con trai.

Thất Sát ở Thìn, Tuất: hiếm con, con lại mang tật bệnh hay hoang đàng. Nếu ở Tý, Ngọ thì nhiều lắm là được hai người, có thể có một trai. Đi với Liêm Trinh, ý nghĩa tương tự.

Tham Lang ở Tý, Ngọ: con hữu sinh vô dưỡng và rất ít, đặc biệt là không thể có con trai. Ngoài ra, con lớn lên thường bất mục, khó dạy.

Phá Quân: hiếm con, hữu sinh vô dưỡng, lại hình khắc với cha mẹ dù Phá tọa thủ ở cung nào cũng vậy. Đặc biệt đi với Liêm Trinh, ý nghĩa cũng tương tự.

Thiên Đồng ở Thìn, Tuất, Tỵ, Hợi: hiếm con và khó nuôi con, may mắn thì được một con, ở Tỵ Hợi thì có hai nhưng sau này tha phương cầu thực, hoang đàng. Đồng cung với Nguyệt ở Ngọ cũng hiếm, nếu là nữ số thì sự hiếm muộn này bắt nguồn từ khí huyết suy nhược.

b. Các phụ tinh

(thiếu)

CÁC CÁCH ĐI TU

Thân đều tốt, đặc biệt là ở Phúc.

Thiên Đồng: sao này cũng phải miếu, vượng và đắc địa mói có ý nghĩa tốt như Thiên Lương. Thiên Đồng càng thiện khi hội tụ với Thiên Lương ở Dần, Thân: xu hướng bác ái nhờ đó càng thêm mạnh.

Thiên Quan, Thiên Phúc: chủ làm việc thiện, tư tưởng thiện, tinh thần cứu nhân độ thế, niềm tin nơi thiêng liêng, năng khiếu tu hành, triển vọng đắc đạo. Nếu cả hai sao này cùng hội chiếu vào Phúc, Mệnh hay Thân thì

hiệu lực càng mạnh thêm.

Ân Quang, Thiên Quý: mang rất nhiều ý nghĩa phúc đức và trường thọ. Về mặt tính tình, người có Quang Quý là kẻ nhân hậu, từ thiện, thành tín với bạn bè, hiếu đễ với cha mẹ, chung thủy với vợ chồng, sùng đạo với thiêng liêng. Về mặt giải họa, Quang Quý biểu tượng cho sự phù hộ của thần linh, sự trợ lực của người đời trong nhiều phương diện. Về mặt siêu hình, Quang Quý hỗ trợ cho sự cảm thông với linh thiêng, tinh thần vọng đạo hết sức mạnh mẽ. Từ đó, năng khiếu đi tu có triển vọng thành đạt nhiều hơn kẻ khác.

Tứ Đức: đều chủ cái hạnh tốt đẹp của người thiện tâm, lấy nhân nghĩa lễ trí tín làm kim chỉ nam xử thế.

Hóa Khoa: cái hạnh của Hóa Khoa cũng tương tự như cái hạnh của Tứ Đức. Sự khác biệt khả dĩ là hạnh của Tứ Đức xuất phát từ tâm, trong khi cái hạnh của Hóa Khoa bắt nguồn từ văn hóa, học vấn mà có.

2. Những sao thất bại ở đời:

Những sao này thường đóng ở Mệnh, Thân có thể là ở Phúc cũng mang ý nghĩa tương tự: Tử Vi với sát tinh – Vũ Khúc với sát tinh – Thiên Phủ, Tuần, Triệt với sát tinh. Đây là phá cách gọi chung là “đế ngộ hung đồ” ngụ ý một kẻ thất bại, bất đắc chí ở trường đời.

Cơ, Lương, Kình, Đà, Linh, Hỏa, Tướng

Cơ, Lương, Tuần, Triệt với sát tinh

Xương, Khúc, Tuần, Triệt với sát tinh

bất hạnh nặng nề cho kiếp sống con người, thúc đẩy thế nhân đi tìm nguồn an ủi khác trong cõi đạo.

Tử, Tham với Không, Kiếp: ở Mão Dậu là người yếm thế, bi quan, có khiếu tu hành. Gặp thêm Không, Kiếp là bị nghiệp chướng ở đời.

Mệnh vô chính diệu gặp sát tinh – Sát tinh vây hãm các cung cường: cách của người dễ đi tu.

Hồng Loan, Thiên Không: kẻ thất bại vì tình, thường tìm sự đoạn tuyệt nghiệp tình để đi tu.

3. Những sao cô độc:

Cô Thần, Quả Tú – Đẩu Quân – Vũ Khúc: điển hình cho sự cô độc, nói rộng hơn là sự đơn thân, lẻ bóng trong gia đạo, dù đóng ở Mệnh, Thân, hay ở Phu Thê, Tử. Càng gặp nhiều, tình trạng cô đơn càng chắc chắn, nhất là đối với nữ số.

(Sưu tm)

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Bảy 18, 2012 in Nghiên cứu Tử Vi

 

Bình giải các cách tử vi – CÁCH ĐA PHU – NHỮNG SAO NHIỀU CHỒNG

1. Cách đa phu tại cung Phu:

Cự Môn, Hóa Kỵ: cho dù đắc địa cũng nói lên bất trắc gia đạo đặc biệt là khi đồng cung. Bộ sao này gọi là “ngọc có vết”, ám chỉ duyên số phụ nữ phải gặp bất hạnh, từ tai nạn trinh tiết xảy ra cho người con gái chưa chồng cho đến hậu quả trên hạnh phúc gia đạo sau khi lập gia đình. Cự, Kỵ có nghĩa là có hai đời chồng, đồng thời cũng có nghĩa là gia đạo bất hòa, người đàn bà bị hắt hủi, phụ rẫy vì thất trinh trước khi lấy chồng. Nếu chỉ có Kỵ đơn thủ thì chỉ có nghĩa là bất hòa mà thôi.

Cự Môn hãm địa: nếu cung Phúc, Mệnh hay Thân xấu, Cự Môn hãm địa sẽ bất lợi cho gia đạo, thể hiện qua việc chắp nối vài lần. Trái lại, nếu ba cung trên tốt, thì có thể chỉ xung khắc mà thôi.

Cự Môn, Hỏa Tinh, Linh Tinh: khắc phá, dễ đi đến tan vỡ, chắp nối.

Phá Quân, Tuần hay Triệt: Phá Quân chủ sự hao tán phu thê dù là đắc địa. Tuần, Triệt báo hiệu sự xung khắc nặng. Cả hai sao thường báo hiệu sự gãy đổ, có khi đến ba lần. Chỉ riêng Tuần hay Triệt cũng đủ hủy hoại một lần hôn nhân.

Tuần, Triệt hoặc Tuần, Triệt đồng cung: chỉ sự gãy đổ một lần, nhẹ nhất có thể là bị hồi hôn sau khi có lễ hỏi, nặng nhất là tan rã sau khi hai người ăn ở với nhau. Nếu Tuần, Triệt đồng cung thì cái họa chia ly, sát phu, chắp nối hầu như khó tránh và có thể xảy ra ít nhất hai lần trong gia đạo. Nếu cung Phúc, Mệnh, Thân mà xấu nữa thì nữ số, ngoài việc chết chồng, mất chồng có thể lâm vào cảnh lẽ mọn, thứ thiếp, chưa kể đây có thể là trường hợp gái giang hồ hoặc là gái già không chồng, lỡ thời hoặc phải ở vậy nuôi con, dù có “lắm mối” mà tối vẫn “nằm không”. Trường hợp chồng bỏ cũng là một hình thái khả dĩ có. Hai sao này phá hoại cung Phu không kém gì Phá Quân hãm địa. Mức độ nặng nhẹ, số lần tan hợp còn tùy phẩm chất của Phúc, Mệnh, Thân.

Thất Sát ở Thìn, Tuất: khắc chồng và gián đoạn gia đạo nhiều lần, đặc biệt là khi Phúc, Mệnh, Thân xấu.

Tử Vi, Tham Lang hội Tả, Hữu: Riêng Tả, Hữu ở Phu ám chỉ sự song đôi, nghĩa là có hai đời chồng hoặc nếu Mệnh, Thân có nhiều sao tình dục thì có chồng và có cả nhân tình.

Đào Hoa, Thiên Hình: duyên số bị trắc trở nhiều lần. Vì Thiên Hình chỉ sự ghen tuông và bạo hành cho nên cách Hình Đào ám chỉ một vụ ngoại tình nào đó của người chồng (hay vợ) làm đổ vỡ gia đạo, sau một trận xô xát và mặt khác cũng chỉ cá tính quá ghen tuông của người vợ/chồng làm cho duyên phận hai bên bị gián đoạn. Vốn có Đào Hoa hiện diện ở Phu cho nên việc ngoại tình của chồng thường tái diễn và việc ông ăn chả bà ăn nem cũng khả hữu.

Thiên Riêu, Thiên Hình: ý nghĩa tương tự như trên nhưng có phần nặng hơn vì Thiên Riêu chỉ sự giao dịch sinh lý hẳn hoi, trong khi Đào Hoa có thể chỉ bay bướm lăng nhăng. Tuy Hình, Riêu ở Phu có nghĩa là chồng ngoại tình song đây cũng là cách gái hại chồng, phản chồng để thỏa mãn sinh lý hoặc để trả thù. Nghĩa này càng rõ khi Riêu thủ ở Mệnh, Thân, Di hay Quan của lá số phụ nữ: đàn bà dâm đãng, ngoại tình và bị chồng hay nhân tình đánh đập (Thiên Hình chỉ thương tích) hoặc kiện ly dị.

Đào Hoa hay Hồng Loan gặp Hóa Kỵ: không nhất thiết phải có hai chồng. Chắc chắn nhất là bộ sao này chỉ sự đắc mèo của chồng, đắc kép của vợ. Hội với Hóa Kỵ ở cung Phu là có sự lục đục, nghi ngờ lẫn nhau trong gia đạo. Nếu thiếu sao đoan chính thì vấn đề đắc kép của nữ số chỉ ngoại tình, đa “phu”. Nếu nhân duyên bị gián đoạn, người đàn bà tái giá rất nhanh, nhờ luôn có kép hờ.

Long Trì, Phượng Các, Tả Hữu: Long Phượng chỉ hôn nhân, còn Tả Hữu ngụ ý có sự song đôi hay tái sinh, tái hợp nhiều lần. Vì bản chất tốt đẹp của Long Phượng nên trong cả hai lần, phụ nữ đều gặp nhân duyên ưng ý.

Nhật, Nguyệt, Tả Hữu: Nhật Nguyệt tượng trưng cho chồng và vợ đi đôi với Tả Hữu có thể có tình trạng hai lần lập gia đình hoặc tình trạng có gia đình mà có nhân tình. Nếu Nhật Nguyệt cùng sáng, hai mối duyên có thể cùng tốt đẹp. Nếu mờ ám, thường là ngang trái, chia ly.

Thiên Mã, Tuần hay Triệt: chỉ sự đổ vỡ một lần.

Cự Môn, Thiên Đồng, Thiên Riêu: Cự ở Phu chỉ trắc trở gia đạo, Đồng chỉ sự thay đổi, Riêu chỉ sắc dục. Đây là trường hợp ngoại tình của người chồng hoặc người vợ vì Cự ở Phu thường chỉ hai đời chồng hoặc hai chồng. Vì Riêu chỉ mối tình xác thịt cho nên cả hai vợ chồng cùng chạy theo tiếng gọi của sinh lý.

Thai, Phục, Vượng, Tướng: hai vợi chồng lấy nhau rồi mới hợp thức hóa (tiền dâm hậu thú), đồng thời cũng có nghĩa là vợ hoặc chồng có một đời con trước rồi mới họp nhau.

2. Cách đa phu tại cung Mệnh hay Thân:

Đào Hoa hay Hồng Loan với Thiên Riêu: đa tình, đa dâm, dù đã có chồng.

Đào, Thai hay Liêm Trinh, Tham Lang đồng cung: chỉ sự dâm đãng khá nặng, hiến dâng một cách dễ dãi và vô điều kiện. Riêng bộ Liêm Tham còn báo hiệu cả số kiếp giang hồ khả hữu. Sự hiện diện của sao Thai còn có nghĩa “không chồng mà chửa”.

Thiên Riêu, Thiên Đồng: chỉ sự thay cũ đổi mới trong vấn đề sinh lý và là biểu hiện của sự ngoại tình, bắt nguồn từ lý do thể xác. Nếu Đồng ở Hợi hay Tỵ mà gặp Riêu tại đó thì có thể là giang hồ, hư thân mất nết từ nhỏ.

Hoa Cái, Bạch Hổ, Mộc Dục: Mộc Dục và Hoa Cái chỉ sự chưng diện, se sua và háo dâm. Bạch Hổ là máu. Tính nết dâm đãng vào tận xương tủy, hầu như là một bệnh sinh lý. Đây là người chưng diện sắc sảo và khéo chiều chuộng đàn ông, làm cho mọi người phải chết mê, chết mệt vì họ.

Tướng, Khúc, Mộc, Cái, Đào: chỉ sự hoa nguyệt của hạng người quý phái, ngoại tình với các nhà tai mặt, quyền thế, sang trọng.

Tham Lang hay Thất Sát ở Dần, Thân: chỉ người con gái bạc tình, đôi khi ghen tuông từ tự ái hay quyền lợi hơn là vì tình yêu

Đào Hoa hay Hồng Loan: có nhan sắc, có duyên. Nếu hội thêm Tả Hữu, có thể có hai đời chồng. Sát tinh và sao tình dục: báo hiệu nhiều nghiệp chướng trong tình trường, cụ thể như gặp nhiều mối tình hết

sức ngang trái hoặc phải tan vỡ nhiều lần, thậm chí có thể là giang hồ lãng tử. Người đàn bà như vậy gặp nhiều mối tình liên tiếp, chóng hợp, chóng tan, mỗi lần như thế đều phải điêu đứng, đau khổ, có khi đến tự tử (sát tinh).

Chính tinh hãm địa ở Mệnh: cũng là một bất hạnh có thể có cho gia đạo. Sát Phá Liêm Tham không bao giờ hợp với phụ nữ về phương diện gia đạo. Nếu đắc địa thì có thể quyền quý cao sang nhưng cảnh chồng con không toàn, không bền, dễ bị gián đoạn, chắp nối.

3. Cách đa phu ở cung Nô:

Đào Hoa hay Hồng Loan: chỉ nhân tình khả hữu, dù là có chồng.

Thiên Riêu, Đào Hoa hay Thiên Đồng: háo dâm, hay thay đổi tình nhân và ngoại tình. Duy chỉ có Riêu ở Mão, Dậu thì tương đối kín đáo, có tự chế, vì thế ít lụy đến danh giá, tai tiếng. Nếu có Tử đồng cung thì cuộc ngoại tình rất bí mật, cẩn thận, nhờ tài khéo léo che mắt thiên hạ. Đào với Tử còn có nghĩa là yêu trộm, thương thầm, có khi chỉ một chiều.

Thai Đào hay Thai Riêu: chỉ việc thụ thai khả hữu do lang chạ.

Thai, Phục, Vượng, Tướng: dâm bôn với người tình có thể có thai. Thông thường, có sự dụ dỗ của một bên nào đó vì có Phục Binh và Tướng Quân chỉ thủ đoạn, làm liều, táo bạo. Và cũng vì có Phục Binh nên có thể câu chuyện bị tiết lộ và cặp nhân tình bị bắt ghen tại trận. Nếu được Thiên Giải đồng cung, có thể chạy thoát.

4. Cách đa phu ở cung Tử:

Khi cung Tử là âm cung thì bảy cách sau chỉ đàn bà hai chồng: Thiên Tướng, Tuyệt – Thái Âm, Thiên Phúc – Cự Môn, Thiên Cơ đồng cung – Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương thủ, chiếu – Phục Binh, Tướng Quân – Thai, Đế Vượng và Thai, Tả, Hữu.

5. Cách đa phu ở cung Thê của phái nam:

Đào, Hồng, Kỵ, Đà: lừa dối chồng để trăng hoa.

Đào, Hồng, Cái: vợ chồng bỏ nhau vì nguyên nhân loạn dâm hay ngoại tình.

Đào, Thai hay Hồng Riêu hay Riêu Thai: vợ ngoại tình, lang chạ, đôi khi mang con người về cho chồng nuôi.

Thất Sát hay Phá Quân ở Thìn, Tuất: vợ hai lòng.

CÁCH TỬ TỨC – NHỮNG SAO SINH CON

1. Cách tử tức qua các sao:

a. Chính tinh: hầu hết các chính tinh đắc địa trở lên đều có nghĩa là có con. Vì vậy, dưới đây là danh sách các sao chỉ cách hiếm muộn con cái:

– Vũ Khúc

– Vũ Khúc, Thất Sát

– Vũ Khúc, Thiên Tướng

– Thất Sát ở Thìn, Tuất, Tý, Ngọ

– Thất Sát, Liêm Trinh

– Tham Lang ở Tý, Ngọ

– Phá Quân

– Phá Quân, Liêm Trinh

– Thiên Đồng ở Thìn, Tuất, Tỵ, Hợi

– Thiên Đồng, Thái Âm ở Ngọ

b. Các phụ tinh:

Thai: có sao này ở Mệnh, Thân, Tử thì khỏi lo tuyệt tự. Tuy nhiên, sao Thai chỉ khả năng có con chứ không hẳn có nghĩa là nuôi được đứa con đó.

Mộc Dục: chỉ sự thụ thai và sinh nở nhiều, ý nghĩa rõ hơn sao Thai.

Long Trì, Phượng Các – Thanh Long: chỉ có con và sinh nở được vuông tròn. Con sinh ra lại đẹp đẽ, dĩnh ngộ.

Tràng Sinh, Đế Vượng: chỉ sự phong phú con, cụ thể là có nhiều con trai.

Ngoài ra, một số sao khác có ý nghĩa tử tức một cách gián tiếp hơn, chỉ sự may mắn, sự sớm con nói chung:

Nguyệt Đức, Thiên Đức – Long Đức, Phúc Đức – Thiên Quan, Thiên Phúc – Tả Phù, Hữu Bật – Dưỡng – Thiên Hỷ, Hỷ Thần – Thiên Mã, Tràng Sinh – Thanh Long, Lưu Hà. Những sao này chỉ xác nhận thêm triển vọng sinh nở vuông tròn, suôn sẻ khi đi chung với sao tử tức kể trên.

2. Cách sinh trai, gái:

a. Vấn đề trai nhiều hay gái nhiều trong số con:

Khi nào cung Tử có sao nam đẩu tọa thủ thì có con trai nhiều hơn con gái. Có 7 sao nam đẩu: Thiên Phủ, Thiên Cơ, Thiên Tướng, Thái Dương, Thiên Lương, Thất Sát, Thiên Đồng.

Khi nào cung Tử có sao bắc đẩu tọa thủ thì có con gái nhiều hơn con trai. Có 6 sao bắc đẩu: Cự Môn, Tham Lang, Thái Âm, Vũ Khúc, Liêm Trinh, Phá Quân.

Trong trường hợp cung Tử có cả nam, bắc đẩu đồng cung thì căn cứ vào âm dương tính của cung Tử mà xét.

Nếu cung Tử ở dương cung thì trai nhiều hơn, ở âm cung thì gái nhiều hơn. Riêng sao Tử Vi vừa là nam đẩu vừa là bắc đẩu nên nếu đi chung với nam đẩu thì trai nhiều hơn, với bắc đẩu thì gái nhiều hơn.

Trong trường hợp cung Tử vô chính diệu thì căn cứ vào chính tinh xung chiếu để tính: nam đẩu là trai, bắc đẩu là gái. Nếu có cả nam, bắc đẩu đồng cung xung chiếu vào cung Tử thì tùy theo cung Tử là dương thì trai nhiều, âm

là gái nhiều.

b. Vấn đề tiên đoán sinh trai, gái vào năm sinh nở:

Nếu năm sinh nở rơi nhằm cung có nam đẩu thì sinh trai, có bắc đẩu thì sinh gái. Nếu có cả nam bắc đẩu đồng cung thì căn cứ vào dương cung của năm sinh để đoán trai, âm cung để đoán gái. Nếu năm sinh rơi vào vô chính diệu thì dựa theo trường hợp vô chính diệu ở đoạn trên mà tính.

c. Tuần, Triệt và vấn đề trai gái: Trong mọi trường hợp cung của năm sinh nở gặp Tuần hay Triệt hoặc Tuần, Triệt đồng cung thì mọi kết luận phải đảo ngược.

d. Vấn đề trai hay gái đầu lòng: Nếu cung Tử có nam đẩu thì sinh con trai trước, nếu có bắc đẩu thì sinh con gái trước. Nếu từ cung Tử biết con đầu lòng là trai mà đến năm sinh nở lại sinh gái thì phải đoán rằng sinh gái đầu lòng khó nuôi còn sinh đúng trai thì dễ nuôi. Ngược lại, nếu cung Tử cho biết con gái đầu lòng mà vào hạn sinh nở lại gặp trai thì khó nuôi.

3. Số lượng con:

a. Các sao đông con: Sao Tràng Sinh: 8 con và sao Đế Vượng: 7 con. Những sao hay bộ sao 5 con bao gồm: Tử Vi ở Ngọ – Tử, Phủ đồng cung – Thiên Phủ ở Tỵ, Hợi – Thái Dương, Thái Âm sáng sủa – Thái Dương, Thái Âm đồng cung – Thái Dương, Thiên Lương ở Mão – Thiên Lương ở Tý, Ngọ – Thiên Đồng, Thái Âm ở Tý – Thiên Đồng, Thiên Lương ở Dần – Thiên Cơ, Thiên Lương đồng cung – Thiên Cơ, Thái Âm ở Thân – Cự Môn ở Hợi, Tý, Ngọ.

b. Các sao có số con trung bình: từ 3-5 con, bao gồm: Tử Vi ở Tý – Liêm Trinh, Thiên Phủ đồng cung – Thiên Phủ ở Sửu, Mùi, Mão, Dậu – Thiên Đồng ở Mão – Cự Môn, Thái Dương ở Dần, Thân – Thiên Tướng ở Tỵ, Hợi, Sửu, Mùi – Thái Dương, Thiên Lương ở Dậu – Thái Dương hay Thái Âm hãm – Thái Âm, Thiên Cơ ở Dần – Tham Lang ở Thìn, Tuất – Thiên Lương ở Sửu, Mùi, Tỵ, Hợi – Cự Môn, Thiên Đồng đồng cung – Thất Sát ở Dần, Thân – Phá Quân ở Tý, Ngọ – Tử Vi, Thất Sát đồng cung – Quan Đới, Lâm Quan, Dưỡng – Tả Phù, Hữu Bật

c. Các sao ít con, làm giảm số con: ít con được kể như có hai hay một người con, bao gồm các sao hay bộ sao còn lại, ngoại trừ các sao kể trong cách hiếm muộn. Trong số các sao làm giảm số con, đặc biệt có sao:

– Lộc Tồn: làm giảm đi hai con

– Tuần hay Triệt gặp chính tinh sáng sủa, sẽ làm giảm một nửa số con.

4. Cách sinh đôi: những bộ sao có ý nghĩa sinh đôi khá chắc chắn bao gồm:

– Thai, Nhật, Nguyệt đồng cung

– Nhật, Nguyệt ở Tử giáp sao Thai

– Thai, Tả, Hữu đồng cung

Những bộ sao dưới đây không chắc chắn lắm: Thái Dương, Thiên Hỷ – Thái Âm, Thiên Phúc – Hỷ Thần, Tuyệt đồng cung – Thiên Mã, Tả, Hữu, Địa Không đồng cung.

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Bảy 18, 2012 in Nghiên cứu Tử Vi

 

Bình giải các cách tử vi – CÁCH SINH, KHẮC VỢ CHỒNG – NHỮNG SAO XUNG, HỢP GIA ĐẠO

1. Sự khắc hợp giữa trai gái tính theo can:

a. Năm trường hợp tốt:

– Giáp hợp Kỷ – Đinh hợp Nhâm

– ất hợp Canh – Mậu hợp Quý

– Bính hợp Tân

b. Mười trường hợp xấu:

– Giáp phá Mậu – Kỷ phá Quý

– ất phá Kỷ – Canh phá Giáp

– Bính phá Canh – Tân phá ất

– Đinh phá Tân – Nhâm phá Bính

– Mậu phá Nhâm – Quý phá Đinh

2. Sự khắc hợp giữa trai gái tính theo chi:

a. Vấn đề hợp:

Tam hợp gồm:

– Dần, Ngọ, Tuất

– Thân, Tý, Thìn

– Tỵ, Dậu, Sửu

– Hợi, Mão, Mùi

Nhị hợp gồm:

– Tý hợp Sửu – Thìn hợp Dậu

– Dần hợp Hợi – Tỵ hợp Thân

– Mão hợp Tuất – Ngọ hợp Mùi

b. Vấn đề khắc:

– Tý khắc Ngọ – Tỵ khắc Hợi

– Mão khắc Dậu – Thìn khắc Tuất

– Dần khắc Thân – Sửu khắc Mùi

3. Việc lập gia đình qua các sao:

a. Những sao hỷ tín:

Thông thường, các sao hay bộ sao may mắn nói chung đều có nghĩa hỷ tín khi đi chung với sao tình duyên hay sao cưới hỏi, bao gồm: Thiên Hỷ-Hỷ Thần; Thanh Long-Lưu Hà; Thanh Long-Hóa Kỵ; Thiên Mã-Tràng Sinh; Thiên Mã-Điếu Khách-Thiên Khốc; Ân Quang-Thiên Quý; Thiên Quan-Thiên Phúc; Tả Phù-Hữu Bật; Tứ Đức nhất là Nguyệt Đức và Thiên Đức.

b. Những sao tình duyên:

Hầu hết bao gồm các sao tình dục nếu kết hợp với sao hỷ tín thì dễ quyết đoán có hôn nhân, đặc biệt nhất là những sao dưới đây: Đào Hoa-Hồng Loan; Thiên Riêu-Thai; Mộc Dục-Hoa Cái; Liêm Trinh-Tham Lang.

c. Những sao cưới hỏi: bao gồm: Long Trì-Phượng Các, Thanh Long

d. Những sao hao tài: Đại Hao, Tiểu Hao

e. Những sao làm cho nhanh hay chậm: thông thường là các sao hành Hỏa và Bắc Đẩu là hai loại sao hối thúc, khiến hôn nhân sớm thành. Còn Nam Đẩu vì ăn về sao cho nên có ý nghĩa chậm hơn. Đặc biệt là những sao Phi Liêm, Hỏa Tinh, Linh tinh có tác dụng hối thúc. Địa Không, Địa Kiếp, Thiên Không chỉ sự bất thần, đột ngột. Thiên Khôi, Thiên Việtchỉ sự vừa ý. Các Nam Đẩu vì hiệu lực về sau cho nên báo hiệu hôn nhân vào nửa năm sau.

4. Những sao bất lợi cho hôn nhân:

Cô Thần, Quả Tú hay Đẩu Quân: chỉ sự lẻ loi, xế bóng, cô đơn, kén chọn, có tác dụng ngăn trở việc lập gia đình. Càng hội tụ nhiều, sự ngăn trở càng mạnh, trừ phi gặp nhiều sao tình duyên bù chế.

Thái Tuế, Quan Phù, Quan Phủ: Thái Tuế đối nghĩa với Đào, Hồng vì vậy làm cản trở sự kết duyên. Quan

Phù và Quan Phủ chỉ sự phản bội, sự phụ rẫy trong tình yêu.

Phục Binh: chỉ sự cản trở, thường là bắt nguồn từ cha mẹ mỗi bên không tán thành duyên số cho đôi trẻ. Mặt khác, sao này còn chỉ sự phá hoại, rình rập, bắt ghen, bêu xấu.

Địa Không, Địa Kiếp hãm địa: chỉ sự xui xẻo về mọi phương diện. Không Kiếp hãm làm cho việc cưới hỏi bất thành, trai gái phải đau khổ vì mối tình bất toại, đôi khi đưa đến hậu quả tai hại cho tính mạng.

Phá Quân hãm địa: không bao giờ có lợi cho hôn nhân và cho hạnh phúc lứa đôi. Hạn rơi vào, việc lập gia đình sẽ bị tan vỡ.

Tuần, Triệt: phá vỡ, làm chậm trễ, làm khó khăn cho hôn nhân. Nếu cả hai đồng cung ở hạn đó thì sự bế tắc quan trọng. Trong trường hợp đơn thủ mà gặp sao xấu tại cung hạn, sự khó khăn, trắc trở xảy ra trong buổi đầu: hôn nhân sẽ đến chậm.

CÁCH SỢ VỢ, NỂ VỢ – NHỮNG SAO SỢ VỢ, NỂ VỢ

1. Những bộ sao nói lên bản lĩnh của người vợ:

Thất Sát hay Hóa Quyền ở cung Thê: Sát là sao nóng tính, uy dũng, oai phong, cương nghị, hiếu thắng, tự ái đối với cả hai phái. Dù đắc địa hay hãm địa, bản chất cương cường không biến thể bao nhiêu nên nữ mệnh có sao này tọa thủ càng có khuynh hướng đóng vai chủ động trong việc liệu công việc trong gia đình và giao tế ngoài xã hội. Hóa Quyền chỉ sự hiếu thắng, háo quyền, thích chỉ huy, hay dựa vào quyền thế kẻ khác, đặc biệt là của chống. Từ đó, hậu quả khả hữu là hay hiếp chồng, lấn lướt người chồng, lợi dụng quyền lực của chồng. Cả hai sao đi chung là hai yếu tố căn bản của một phụ nữ hiên ngang đối với chồng. Sát hay Quyền càng đắc địa, tính tình càng cương ngạnh.

Tướng Quân hay Thiên Tướng ở cung Thê: Thiên Tướng là quyền tinh và dũng tinh nên đàn bà có sao này nóng nảy và bất nhẫn như Thất Sát, mặt khác lại có tính ghen tuông mãnh liệt. Nếu đắc địa, Thiên Tướng còn có ý nghĩa tư chế ít nhiều, thường có xu hướng cao thượng hơn, cụ thể là dùng nghị lực của mình để thuyết phục chồng, áp lực chồng làm việc hay. Nếu hãm địa, tính tình trở nên bộc trực, nóng nảy, liều lĩnh, miễn đạt ý muốn, bất chấp hay dở. Tướng Quân, tuy là phụ tinh, nhưng đồng nghĩa với Thiên Tướng, duy có nóng tính, táo bạo, liều lĩnh nhiều hơn. Ngoài ra, còn có tính kiêu căng, có óc lãnh tụ, có tinh thần sứ quân, háo quyền, nặng tính chất vũ phu và độc lập hơn Thiên Tướng rất nhiều, nết ghen cũng không thiếu. Cả hai sao nếu đồng cung được gọi là “lưỡng tướng”. Cung Thê của đàn ông gặp bộ sao này thì rất sợ vợ còn cung Mệnh của phụ nữ có hai sao này thì hay lấn hiếp chồng. Nếu được cát tinh phù trợ thì áp lực của vọ có chiều hướng tốt, có lợi cho chồng, kiểu như vượng phu. Kỳ dư thì thường bất lợi và hay trái đạo phu thê.

Thân cư Thê: có thể là (i) phải nhờ vả nhiều nơi người vợ vì chính hoạt động của vợ có ảnh hưởng sâu rộng và trực tiếp đến hậu vận của chồng; (ii) sợ vợ, nể vợ hoặc do bản tính cố hữu hoặc do nguyên nhân kể trên.

Hóa Quyền ở cung Nô: đây là cách sợ vợ bé hay sợ nhân tình của người chồng đã đa mang. Người đa thê mà gặp sao này ở Nô thường lục đục với gia đình chính thức. Nếu có Thiên Tướng hay Tướng Quân ở Nô nữa thì mức độ chi phối của nhân tình và vợ lẽ rất quyết định. Nếu có thêm các sao thủ đoạn, chua ngoa nữa (như Phục Binh, Thái Tuế, Hóa Kỵ) thì vợ lẽ, nhân tình đó tác oai, tác quái vô cùng. Nếu Hóa Quyền chỉ hội chiếu vào Nô thì ảnh hưởng đó gián tiếp, giai đoạn và cơ hội mà thôi.

2. Những bộ sao nói lên tư thế trội yếu của người vợ:

Thông thường có những tài tinh ở Thê trội yếu như: Hóa Lộc hay Lộc Tồn ở Thê – Vũ Khúc, Thiên Phủ ở Thê – Hóa Lộc hay Lộc Tồn, Ân Quang, Thiên Quý ở Thê – Tử Vi, Thiên Tướng ở Thê – Long, Phượng,

Lộc, Mã ở Thê và nhiều bộ sao giàu có chỉ di sản, tư sản, tạo sản của người vợ.

Nếu các bộ sao giàu ngụ ở Thê thì tất sẽ vắng bóng ở cung Mệnh, Thân, Tài, Quan của nam số. Nếu những cung này xấu thì chồng nghèo hơn vợ và phải “thực lộc chi thê”.

Nếu Thái Âm sáng sủa ở Thê thì tư thế của vợ mạnh và nếu sao tọa thủ Mệnh của người chồng lại lép vế thì nam số thường nương thế vợ để tiến thân.

Thân cư Thê có Thái Âm sáng sủa: sợ và nể vợ khá rõ ràng. Thái Âm càng sáng, sự nghiệp vợ càng hiển. Nếu đồng cung với Thiên Cơ ở Thân (Thiên Cơ chỉ sự khó tính, ghen tuông) thì ý nghĩa trên càng được xác nhận. Trong mọi vị trí mà Thái Âm sáng sủa (Thân, Dậu, Tuất, Hợi, Tý) đóng ở Thê thì trai lấy vợ vừa đẹp, vừa giàu, thường nể vợ và phải nhờ vợ mới có danh. Nếu có thêm cả Lộc, Quyền thì tính sợ vợ càng chắc chắn.

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Bảy 18, 2012 in Nghiên cứu Tử Vi

 

Bình giải các cách tử vi – CÁCH GIẢI HỌA, NHỮNG SAO GIẢI

1. Cách giải họa qua các sao:

a. Chính tinh:

Có thể nói tất cả chính tinh đắc địa trở lên đều có ý nghĩa phúc đức, từ đó có ý nghĩa giải họa. Càng đắc địa, hiệu lực càng mạnh. ở vị trí đắc địa, chính tinh phải tránh hai sao Tuần, Triệt. Nếu chính tinh đắc địa bị hung sát tinh đi kèm thì may rủi thường đi liền nhau, hoặc có lúc được phúc, lúc bị họa. Trong số chính tinh miếu, vượng và đắc địa, có vài sao có hiệu lực giải họa mạnh: Vũ Khúc, Thiên Tướng, Tử Vi, Thiên Phủ, Thiên Lương,

Thiên Đồng, Thái Dương, Thái Âm, Thiên Cơ.

Nếu hãm địa, khả năng cứu giải kém hẳn. Cho dù hãm địa mà bị Tuần, Triệt thì hiệu lực cứu giải cũng không được phục hồi như ở miếu, vượng địa mà chỉ tương đương với sao đắc địa.

Vũ Khúc: là sao giải họa mạnh nhất. Nếu Vũ Khúc miếu, vượng và đắc địa gặp Không, Kiếp, Kình, Đà, Hỏa, Linh thì không đáng lo ngại trong khi Tử Vi chỉ chế được Hỏa, Linh. Nếu Vũ Khúc đồng cung với Thiên Tướng thì khả năng chống đỡ với sát tinh càng mạnh thêm, cho dù sát tinh đó đắc địa hay hãm địa.

Thiên Tướng: khắc chế được sát tinh. Có võ tinh khác đi kèm, Tướng được thêm uy, thêm quân. Được Vũ Khúc đồng cung, hiệu lực của Thiên Tướng càng được tăng cường: tiêu trừ hay giảm thiểu tai họa, bệnh tật một cách đáng kể. Thiên Tướng chỉ e ngại Kình Dương, Thiên Hình và hai sao Tuần, Triệt. Với Kình Dương, hung nguy dễ gặp. Với Tuần Triệt và Thiên Hình, Thiên Tướng không những mất uy lực cứu giải mà còn báo hiệu bệnh, tật, họa nặng nề hơn nữa.

Tử Vi: là cách giải họa gián tiếp vì (i) Tử Vi che chở con người chống lại bệnh tật và họa nhưng Tử Vi chỉ ban phúc chứ không giải họa mạnh như Vũ Khúc hay Thiên Tướng. Đối chọi với sát tinh, Tử Vi chỉ khắc được Hỏa, Linh mà thôi. Gặp sát tinh khác như Kình, Đà, Không, Kiếp, Tử Vi ví như bị vây hãm một cách hiểm nghèo: tuy không chết nhưng gặp hung họa dẫy đầy, đấu tranh chật vật; (ii) Tử Vi mang lại tiền bạc, của cải giúp con người tránh được cảnh nghèo, đồng thời giúp con người tạo phúc cho mình bằng tiền bạc; (iii) Tử Vi ban cho công danh, quyền thế trong xã hội, không bị đè nén bởi sự cạnh tranh giai cấp.

Thiên Phủ: cũng có đặc tính như Tử Vi nhưng hiệu lực kém hơn. Tuy nhiên, Phủ mạnh hơn Tử trong việc đối chọi với sát tinh: có tác dụng khắc phục được cả Kình Đà nhưng hiệu lực này chỉ có đối với từng sao riêng lẻ hoặc nhiều lắm là hai hoặc ba sao phối hợp. Lẽ dĩ nhiên, Phủ chưa phải là địch thủ của Địa Không, Địa Kiếp và Phủ còn chịu thua Thiên Không nữa. Mặt khác, gặp Tuần Không và Triệt Không, Phủ bị giảm hẳn khả năng cứu giải.

Tử Vi, Thiên Phủ đồng cung: chế hòa được Kình, Đà, Hỏa, Linh phối hợp nhưng đây là cuộc đọ sức giữa các địch thủ hạng nặng, hẳn sẽ gây biến động lớn cho cuộc đời. Bản Mệnh chỉ vững chãi nếu được đắc cách Mệnh Cục tương sinh, Âm Dương thuận lý cùng với Tử Phủ đắc địa đồng cung. Bằng không, cuộc đời sẽ gặp nhiều sóng gió, hiểm tai nghiêm trọng. Phối cách này cũng tạm thời cầm chân được từng sao Địa Không, Địa Kiếp.

Tử, Phủ, Vũ, Tướng cách: cách hay nhất vì giải họa thập toàn nhất.

Thiên Lương: nếu đóng ở cung Phúc thì đức của ông bà di truyền được cho mình, nếu đóng ở Mệnh, Thân thì tự mình tu nhân, tích đức, gây được hậu thuẫn cho người đời. Nhưng Thiên Lương chỉ kìm chế được hung tinh mà thôi.

Thiên Đồng: ý nghĩa tương tự như Thiên Lương nhưng hiệu lực cứu giải kém hơn. Gặp hung tinh, Thiên Đồng ắt phải lận đận nhiều và chỉ kìm chế được nếu có thêm giải tinh trợ lực. Đối với bệnh tật, Thiên Đồng ắt phải lận đận nhiều và chỉ bệnh về bộ máy tiêu hóa vì Thiên Đồng giải bệnh tương đồng kém.

Thái Dương, Thái Âm sáng sủa: chỉ sự thông minh quán thế, khả năng nhận thức thời cuộc, sự am hiểu lẽ trời, tình người từ đó Nhật Nguyệt giúp con người thích nghi dễ dàng với nghịch cảnh với nhiều may mắn. Tuy nhiên, đối với bệnh tật, Nhật Nguyệt không mấy hiệu lực: chỉ bệnh căng thẳng tinh thần, bệnh thần kinh, bệnh tâm trí và nhất là bệnh mắt. Nhật Nguyệt có hiệu lực như Thiên Phủ đối với Kình, Đà, Hỏa, Linh nhưng bị Không, Kiếp lấn át. Nếu Nhật Nguyệt đồng cung ở Sửu Mùi có Tuần Triệt án ngữ, thêm Hóa Kỵ càng tốt, khả năng giải họa tất phải mạnh hơn, chống được hung và sát tinh đơn lẻ. Giá trị của Nhật Nguyệt trong trường hợp này tương đương với Tử Phủ đồng cung hay ít ra cũng bằng Đồng Lương hội tụ.

Thiên Cơ: chỉ người vừa hiền vừa khôn (tương tự như Nhật Nguyệt) nên có hiệu lực cứu giải. Nhưng về mặt bệnh lý, Thiên Cơ chỉ bệnh ngoài da hay tê thấp cho nên ít giải bệnh.

b. Phụ tinh:

Những giải tinh bắt nguồn từ linh thiêng: được cụ thể hóa qua: những hên may đặc biệt giúp cho con người thoát hay giảm được bệnh tật, tai họa; những vận hội tốt đẹp của thời thế, của hoàn cảnh, những diễn biến bất

ngờ có lợi đặc biệt cho riêng mình. Gồm các sao: Ân Quang, Thiên Quý, Thiên Giải, Địa Giải, Giải Thần, Thiên Quan, Thiên Phúc

Những giải tinh bắt nguồn từ sự giúp đỡ của người đời: Tả Phù, Hữu Bật khi đắc địa ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi và có kèm theo nhiều cát tinh khác. Tả Hữu tượng trưng cho sự giúp đỡ của bạn bè, đồng nghiệp, thượng cấp, hạ cấp nhưng chỉ cứu họa chứ không giải bệnh. Tả Hữu còn có nghĩa là chính mình hay giúp đỡ kẻ khác nhờ đó được sự hỗ tương. Có hai sao này ở Mệnh, đương số dễ dàng thành đạt nhưng cần đi chung với chính tinh đắc địa.

Những giải tinh bắt nguồn ở chính năng đức con người:

Hóa Khoa: là giải tinh rất mạnh bao trùm cả bệnh, tật, họa.

Tam Hóa (Khoa, Quyền, Lộc): càng mạnh nghĩa hơn nữa. ý nghĩa đó càng mạnh nếu cả ba hội chiếu hoặc liên châu (Mệnh, Thân ở giữa có một Hóa, hai Hóa kia tiếp giáp hai bên). Thủ Mệnh hay Thân, Tam Hóa có hiệu lực mạnh hơn thế liên châu, nhất là không bị sát tinh xâm phạm. Tam Hóa sẽ tăng hiệu lực nếu đóng ở cung ban ngày và cung dương. Tam Hóa giải họa nhiều hơn giải bệnh,tật. Nếu bị sát tinh đi kèm, Hóa nào bị thì nguồn cứu giải của Hóa đó bị giảm sút hoặc bị họa về mặt đó. Cụ thể, Quyền gặp Không Kiếp thì quý cách bị giảm, Lộc gặp Không Kiếp thì hao tán tiền bạc, Khoa gặp Không Kiếp thì khoa bảng lận đận.

Tứ Đức (Long Đức, Nguyệt Đức, Thiên Đức và Phúc Đức): chỉ phẩm cách tốt, sự nhân hậu, khoan hòa của cá nhân, nết hạnh đó báo hiệu sự vô tai họa hay ít tai họa. Hiệu lực giải bệnh của Tứ Đức không có gì đáng kể.

Thiếu Âm, Thiếu Dương: ý nghĩa giống như Tứ Đức nhưng hiệu lực kém hơn và không có nghĩa giải bệnh.

+ Những giải tinh khác:

Thiên Tài: ý nghĩa giải họa của Thiên Tài chỉ có khi nào sao này gặp sao xấu vì nó làm giảm bớt tác hại của sao xấu. Do đó Thiên Tài có tác dụng như Tuần, Triệt tuy không mạnh bằng. Tuy nhiên, Thiên Tài gặp sao tốt sẽ làm giảm bớt cái hay.

Thiên La, Địa Võng: có tác dụng làm cho sao xấu thành tốt lên ít nhiều, do đó góp phần giảm họa riêng trong các hạn nhỏ.

Đại Hao, Tiểu Hao: nếu đóng ở cung Tật, Đại Tiểu Hao có hiệu lực giải họa đáng kể, cụ thể như làm họa, bệnh tiêu tán mau kiểu như bệnh chóng lành, người bị họa mau khôi phục thế quân bình. Vì la sao hao nên kỵ đóng ở cung Tài.

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Bảy 18, 2012 in Nghiên cứu Tử Vi

 

Bình giải các cách tử vi – CÁCH HỌA, NHỮNG SAO GÂY HỌA

1. Cách họa qua các sao:

a. Sát tinh: gây họa nặng nhất. Sát tinh làm cho mất mạng, chấm dứt luôn sự nghiệp, tài sản, gia đạo, ảnh hưởng sâu rộng đến rất nhiều lĩnh vực. Đối với công danh, sát tinh tiêu diệt quý cách, chấm dứt cơ nghiệp. Đối với tài sản, sát tinh tiêu diệt phú cách. Sự hiện diện của sát tinh ở những cung chỉ phú quý có nghĩa là đương số vừa nghèo, vừa hèn tức là không có tài sản, không có chức phận. Đối với gia đạo, sự hiện diện của sát tinh ở Phu Thê báo hiệu cho sự sát phu, sát thê, sự gián đoạn vợ chồng dưới hình thức ly hôn, ly thân hoặc vợ chồng phải sống xa cách nhau lâu năm, chưa kể các trường hợp bị ruồng bỏ vì ngoại tình hoặc đâm chém nhau vì xung đột hay khảo của. Đối với con cái, sát tinh là dấu hiệu sự sát con, con cái không vẹn toàn, sinh nhiều nuôi ít, hoặc bị tàn tật hoặc thuộc thành phần côn đồ, du đãng, gây phiền nhiễu cho cha mẹ, phá tán tài sản, ăn hết di sản lại còn mắc nợ, tạo nợ cho cha mẹ. Được xem là sát tinh có 8 sao: Địa Kiếp, Địa Không, Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Thiên Không, Kiếp Sát. Càng hội tụ nhiều, càng bị hãm địa nhiều, những tai biến và thiệt hại kể trên càng dễ xảy ra sớm, mau, nặng nề. Sát tinh tụ hội ở cung nào thì cung đó bị ảnh hưởng nhiều nhất.

b. Hình tinh: tạo ra hình ngục, ảnh hưởng đến tự do cá nhân, kiện cáo di lụy đến uy tín cá nhân. Gặp hình tinh, trong trường hợp là nạn nhân, đương số sẽ bị giam cầm, tra tấn, đói khát, hành hạ thể xác và tinh thần, có thể bị đau ốm hay tật nguyền trong thời gian bị bắt giữ, có thể bị đầy ải ở chỗ rừng thiêng nước độc hoặc bị cầm cố ở xà lim chật hẹp, dơ dáy. Mức độ nhẹ hơn, hình tinh là dấu hiệu của sự kiện tụng, sự điều tra. Trong trường hợp này, uy tín, tài sản có thể bị hao hụt, chưa kể những lo lắng cạnh tranh, thù hằn phải gánh chịu. Hình tinh là các sao: Thiên Hình, Quan Phù, Thiên La, Địa Võng, Thái Tuế, Quan Phủ, Liêm Trinh (chỉ hình ngục, quan tụng một cách trực tiếp).

c. Bại, hao tinh: làm cho lụn bại, hao tán chẳng hạn như bị bệnh nan y, bị giáng chức, mất của, hao tài, tang khó, thân nhân đau ốm, tai nạn, vợ chồng nghi kỵ, anh em bất hòa, nhân tình ruồng bỏ. Hao bại tinh gồm có: Tang Môn, Bạch Hổ, Đại Hao, Tiểu Hao, Thiên Khốc, Thiên Hư. Sát tinh và hình tinh nhất định góp phần tăng cường hiệu lực cho hao, bại tinh hoặc là nguyên nhân, hoặc là hậu quả của hao bại tinh.

d. ám tinh: là những sao gây trở ngại, trục trặc. ứng dụng cho cá nhân, ám tinh có thể là vài tính nết đặc biệt kìm hãm sự tiến thủ của con người về mặt công danh tài lộc. Trường hợp đương số là nạn nhân, ám tinh tượng trưng cho tiểu nhân, đố kỵ, phá hoại, ganh ghét làm cản trở bước tiến của mình. ứng dụng cho công danh, ám tinh chỉ sự cạnh tranh trong quan trường, sự trục trặc về thủ tục, hoàn cảnh bất lợi cho thăng tiến. Các hình thái này cũng ứng dụng cho tài lộc. ứng dụng cho gia đạo, ám tinh là sự cản trở hôn nhân, sự phá hoại hôn nhân hoặc là sự xâm nhập của một người thứ ba vào đời sống vợ chồng, sự bắt ghen, sự gièm pha, chim vợ/chồng người khác … ám tinh gồm các sao: Hóa Kỵ, Cự Môn, Phục Binh, Thiên Riêu, Thiên Không Phá Quân, Thái Tuế, Tử Phù, Suy, Tử, Trực Phù, Tuần, Triệt, Cô Thần, Quả Tú, Tuế Phá, Thiên Thương, Thiên Sứ.

e. Sao trợ họa: Hầu hết sát tinh, hình tinh, hao bại tinh, ám tinh đều hỗ trợ cho nhau để gây tác hại dây chuyền.

Những sao trực tiếp trợ họa bao gồm: Tả Phù, Hữu Bật, Hóa Quyền, Quan Đới làm xấu thêm, nặng hơn.

Riêng sao Thiên Tài thì làm xấu ảnh hưởng của Thái Dương và Thái Âm miếu, vượng địa.

2. Họa cho cá nhân

a. Họa của phái nam:

+ Họa đến tính mạng hoặc cơ thể:

Không, Kiếp, Binh, Hỏa, Linh: tai nạn binh lửa. Có khi không cần phải hội đủ cả 5, chỉ cần 3 cũng đủ (tối thiểu phải có Địa Không hoặc Địa Kiếp và Hỏa Tinh hoặc Linh Tinh). Kiếp Không chỉ các tai nạn bất khả kháng, dữ dằn, nặng nề, thủ phạm rất lợi hại và hung bạo, hành động bất ngờ và nhanh chóng. Phục Binh chỉ sự ám hại, phục kích, thường có tòng phạm giúp đỡ. Hỏa hay Linh chỉ họa lửa như phỏng lửa, chết cháy, bị bom, bị đạn, bị chất nổ … Nếu có thêm sát tinh, hình tinh, hao bại tinh khác thì càng dễ chết. Nếu gặp trợ họa như Tả Phù, Hữu Bật, Hóa Quyền thì họa hại càng khó tránh. May ra gặp được nhiều sao giải mạnh mẽ hội tụ trong bối cảnh Phúc, Mệnh, Thân tốt mới khỏi, có thể chỉ bị thương.

Phi, Việt: hội với sát tinh, đặc biệt là Không Kiếp Hỏa, hai sao này chỉ lằn tên mũi đạn, đặc biệt là sao Phi Liêm. Bộ sao này thường ứng cho các tai nạn trên phi cơ hoặc họa về điện hay bị sét đánh.

Lưu Hà hoặc Cự, Kỵ: đi với sát tinh, đặc biệt là Không Kiếp, Lưu Hà chỉ họa ở dưới nước.

Kình, Đà: ám chỉ thương phế nhưng đi với Không, Kiếp vẫn có thể chết. Thương phế thường xảy ra cho tay chân. Đi với Hỏa, Linh thì phỏng ở tay chân.

Hình, Kiếp Sát: chỉ tai nạn nói chung, cụ thể là thương tích có thể đi đến mổ, cưa. Đi với sát tinh, đặc biệt là Không Kiếp, có thể chết vì binh đao hay vì bị mổ xẻ.

Quan Đới: đi với sát tinh chỉ cái chết bất đắc, chết mau chóng.

Tử, Tuyệt: chỉ cái chết nếu đi chung với sát tinh.

La, Võng: gặp sao tốt thì thành hung, từ đó góp phần gây họa vào các hạn xấu.

Thương, Sứ: chỉ dùng để xem hạn. Đi với sát tinh, Thương Sứ tác họa, không hẳn là họa binh đao.

Tướng, Hình – Tướng, Tuần hay Triệt: tác họa rất thảm khốc, cụ thể như chết trận, rớt máy bay, bị phục kích, thông thường chết nát thây có khi không tìm ra xác. Bộ sao này đóng ở Phúc, Mệnh, Thân, Tật hoặc Hạn đều nguy hại như nahu, không kém gì Không Kiếp Binh Hỏa Linh kể trên.

Mã, Hình: báo hiệu điềm bất tường, tai họa thảm thương.

Tướng, Binh, Tử, Tuyệt: chỉ họa binh đao hay họa chiến tranh.

Mã, Tuần hay Triệt hay Kình, Đà: chỉ thương tích tay chân do binh đao hay tai nạn.

Kình, Đà, Tuần hay Triệt hoặc Không, Kiếp: như trên.

Kiếp, Hình, Quan Đới: chết bất đắc, do mổ xẻ hoặc binh đao.

Sát, Hình hay sát tinh: bị ám sát, bị ám hại, tử trận.

Hỏa hay Linh, Kiếp, Không: tai họa rất dễ xảy ra, nhất là khi nhập hạn gặp phải.

Sát, Liêm ở Sửu Mùi – Sát, Hỏa, Hao – Phá, Hỏa, Hao – Sát (hay Phá), Việt, Hình: báo hiệu tai nạn binh đao.

+ Họa ngục hình, quan tụng hại đến tự do và uy tín cá nhân:

Thiên Hình: trừ phi đắc địa, trừ phi đương số hành nghề cảnh sát, thẩm phán, tình báo, trạng sư, Thiên Hình bao giờ cũng có nghĩa hình tù. Số tốt lắm thì Hình ứng về sự điều tra của cảnh sát, của tòa án, của giám sát viện hay của cơ quan an ninh tình báo. Trong trường hợp hành nghề thẩm phán, luật sư, cảnh sát, tình báo, tố tụng, Hình chỉ nghề nghiệp, chức vụ, quyền hành bắt giam hay xét xử người khác hoặc kiện thưa kẻ khác. Đi với cát tinh, hao bại tinh, ám tinh, hình tinh khác, Hình càng có nghĩa kiện và tù và bao giờ đương số cũng là nạn nhân. Có thêm sát tinh, tù tội nặng thêm, hình ngục khó thoát, làm cho tán mạng hay tán tài vì hình ngục. Đi với hao bại tinh, đương số khốn quẫn về tinh thần lẫn vật chất như lo sợ hoang mang, chán nản, tuyệt vọng, trốn tránh, mai danh ẩn tích mà lúc nào cũng sợ bị bắt, hoặc phải nuôi chí trả thù mà khổ sở. Cũng có thể hao bại tinh có nghĩa là trong thời gian thọ hình, đương số phải chịu nhiều cực hình như tra tấn, bỏ đói, hành hạ, đầy ải, mắc bệnh nan y.

Liêm Trinh hãm địa: chỉ sự bắt bớ, giam cầm, ở tù. Dù hành nghề gì mà Mệnh, Thân, Quan có Liêm hãm thì vẫn có thể bị hình tù như thường. Do đó, Liêm Trinh hãm địa ác hiểm hơn Thiên Hình nên đi với sát tinh rất dễ bị tù, bị kiện: Liêm, Kình, Đà, Linh, Hỏa – Liêm Hổ – Liêm, Kiếp, Hình ở Mão, Dậu – Liêm, Tham ở Tỵ và Hợi – Liêm, Kình – Liêm, Cự, Kỵ. Tuy nhiên, trường hợp Liêm Tham ở Tỵ và Hợi có Hóa Kỵ hay Tuần, Triệt đồng cung sẽ hóa giải hình tù của Liêm.

Quan Phù, Thái Tuế, Quan Phủ: chỉ bị kiện, bị điều tra, bị chỉ trích, bị vu cáo, bị nói xấu. Đi với sát tinh, khó tránh tù hay thanh toán vì tư thù, thưa kiện rất lôi thôi. Quan tụng liên hệ đến ba sao này thường là tội lường gạt, bội tín, quỵt nợ, sang đoạt. Quan Phù, Quan Phủ chỉ sự phản bội, sự lợi dụng lòng tin, sự xé lẻ, rã đám. Thái Tuế chỉ khẩu thiệt, cãi vã, chửi bới, chỉ trích, bút chiến, công kích.

Thiên La, Địa Võng: chỉ sự bắt bớ, giam cầm hoặc tối thiểu cũng gây trở ngại cho công việc, kìm hãm sự thăng tiến. Hình tụng, kiện tụng chỉ có khi La Võng đi kèm với sát hay hình tinh trong cục diện Mệnh, Thân xấu.

Hóa Kỵ: có nghĩa kiện tụng. Chất của Hóa Kỵ là ganh ghét, ích kỷ, đố kỵ, nói cấu, vu khống để hãm hại người khác một cách tiểu nhân, nhỏ mọn. Quan tụng của Hóa Kỵ tương tự như Thái Tuế. Đi với Thái Tuế, Hóa Kỵ luôn nói xấu thiên hạ, ngồi lê đôi mách, đưa đến đôi co, đối chất, kiện thưa vì ngôn ngữ bất cẩn.

Đà La: chỉ sự ngoan cố, ngỗ ngược, bướng bỉnh, hẹp hòi, câu chấp và có ý nghĩa kiện tụng. Đặc biệt đi với Kỵ, Tuế thì quan tụng rất rõ. Có Đà La, thua kiện cũng không đầu hàng, còn tìm cách chống án, chạy chọt, vận động cho được phần hơn.

Cự Môn hãm địa (ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi, Tỵ): có ý nghĩa kiện cáo, nhất là đi chung với Hóa Kỵ, Thiên Hình hoặc sát tinh, ý nghĩa giống như Hóa Kỵ.

Cách kiện tụng và ngục hình còn do một số bộ sao dưới đây quảng diễn: Xương, Khúc ở Tỵ và Hợi – Xương, Khúc, Phá ở Dần – Nhật, Nguyệt, Riêu, Đà, Kỵ – Binh, Kỵ, Hình – Binh, Phù, Hình.

+ Họa sắc dục:

Nếu cung Phúc có Tang Môn, Đào Hoa, Hồng Loan và Thai thì dòng họ có người chết vì thượng mã phong.

Nếu 4 sao đó đóng ở Mệnh, Thân hoặc Tật thì họa đó xảy ra cho mình.

Họa bị đánh đập vì đam mê tửu sắc có ba bộ sao: Tham, Đà ở Tý – Tham, Đà ở Dần – Tham, Vũ đồng cung gặp Phá.

Đau khổ vì tình: Tang Môn, Bạch Hổ, Thiên Khốc, Thiên Hư, Lưu Tang, Lưu Hổ, Lưu Khốc, Lưu Hư.

Ngăn trở ái tình: Phục Binh, Hóa Kỵ, Cự Môn, Thiên Không, Kình Dương, Đà La hãm địa, Tuần, Triệt.

Sao chỉ sự phản bội: Quan Phù, Quan Phủ, Thái Tuế.

Sao chỉ sự xui xẻo: Địa Không, Địa Kiếp, Thiên Hình

Sao thay cũ đổi mới: Thiên Mã, Thiên Đồng, Đại Hao, Tiểu Hao, Thai.

b. Họa của phái nữ:

+ Họa trinh tiết:

Thai, Phục, Kiếp hay Không: chỉ sự hiếp dâm, có thể là hiếp tập thể.

Thai, Phục – Thai, Kiếp hay Không – Riêu, Phục – Riêu, Không, Kiếp – Tham, Phục – Tham, Không, Kiếp -Đào, Phục – Đào, Không, Kiếp – Đào Riêu, Không, Kiếp – Đào, Thai, Không, Kiếp: thất trinh thất tiết.

Đào, Riêu: lăng loàn, đàn bà ngoại tình, có khi không phải với một người. Hồng Loan, Riêu cũng có nghĩa tương tự.

Đào, Thai: tiền dâm hậu thú.

Đào, Thai, Riêu: gái giang hồ.

Cự, Kỵ hay Tham, Kỵ: ám chỉ sự mất trinh, sự bất hạnh trong tình ái.

Thai, Hình, Hỏa, Tang, Hổ, Kiếp: chỉ sự hiếp dâm đi liền với án mạng, tượng trưng cho sự thanh toán vì tình, sự trả thù của tình nhân ác độc.

3. Họa cho nghề nghiệp:

a. Cách chức, thôi việc:

Tuần, Triệt ở cung Quan: trắc trở cho quan trường bằng nhiều hình thái: chậm công danh, công danh vất vả, thấp kém, không bền vững, thăng giáng thất thường. Sao Triệt báo hiệu sự gãy đổ ít nhất một lần trong sự nghiệp. Sao Tuần tác họa nhẹ hơn nhưng lâu dài hơn. Gặp cả Tuần, Triệt đồng cung thì tai họa nghề nghiệp vừa nặng, vừa nhiều. Tuy nhiên:

– Tuần, Triệt gặp Âm, Dương ở Sửu, Mùi thi không phá mà làm vượng quan.

– Tuần, Triệt gặp Sát, Phá, Liêm, Tham hãm tối hay bại tinh mờ ám cũng làm vượng quan.

– Tuần, Triệt gặp Tử, Phủ, Cự, Nhật, Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương sáng sủa thì bất lợi cho chức vụ rất nhiều như chậm quan, chóng tàn, gặp hung họa, thăng giáng thất thường. Nếu tám sao trên mà hãm địa thì khá hơn, tức là gặp khó khăn, thất thường trong việc thăng tiến nhưng tựu chung có chức vị khá lớn, nhất là về sau.

– Tuần, Triệt gặp Sát, Phá, Liêm, Tham đắc địa cũng còn đỡ khổ, không đáng lo ngại về sự thăng giáng hay gãy đổ sự nghiệp. Nếu hãm địa thì lại đẹp: công danh bộc phát mạnh mẽ.

Cung Quan vô chính diệu cần có Tuần, Triệt trấn thủ tại đó mới hay. Bằng không thì dễ sa sút. Nếu chính tinh xung chiếu mà sáng sử thì còn khá, ngược lại nếu mờ tối thì bất lợi.

Thiên Tướng gặp Tuần, Triệt thì dù được đắc địa, quan chức không những bị truất giáng mà còn dễ chết thảm khốc. Tướng Quân gặp Tuần, Triệt cũng lâm vào họa hại như thế.

Không, Kiếp: chỉ sự thăng trầm, lên voi xuống chó. Hãm địa thì càng nguy, chắc chắn phải ít ra một lần mất chức nhục nhã, bị đổi đi xa vì kỷ luật, chưa kể những hung họa dẫy đầy, dễ chết vì binh lửa, chiến nạn. Như vậy, sự gián đoạn chức vụ có thể bắt nguồn từ hai nguyên nhân bị chết hoặc bị cách chức. Còn những họa nhỏ khác như vất vả, đè nén, đố kỵ thì khỏi kể. Tai họa công vụ của Không Kiếp cũng còn do tật xấu của chính mình. Người có Không Kiếp có lá số xấu thường xử xự bằng thủ đoạn, bá đạo, ám muội, phi pháp, kiểu như tham lận, cướp của, hối lộ, tham nhũng, buôn lậu, biển thủ đưa đến việc mất chức.

Thiên Hình, Thiên Tướng, Tuần, Triệt: Hình hãm địa ở Quan có nghĩa gián đoạn công vụ vì bị ngục tụng, những tai bay vạ gió làm cho viên chức phải bị liên lụy trong quan trường, chẳng hạn như bị khiển trách, bị điều tra, bị ngưng chức, bị truy tố, bị sa thải. Nếu đi với sát tinh, dễ bị hình tù vì Thiên Hình chỉ hình phạt, bằng kỷ luật hay bằng tòa án. Cho dù Hình gặp Tuần hay Triệt, ngục tụng cũng khó tránh. Cũng đồng nghĩa đó nếu Hình đi với Thiên Tướng ở cung Quan. Nếu có thêm Thiên Khôi, sẽ có thể bị mất đầu. Những họa nói trên sẽ tránh được nếu đương sự bị đau phải mổ hay bị chết nhưng dù sao, Tướng Hình Khôi ở Quan bao giờ cũng đập nặng vào chức vụ: Thiên Hình ở Quan là hình thương đến công vụ. ý nghĩa này vẫn tồn tại nếu Hình đi chung với Liêm Trinh; với Quan Phù, Thái Tuế, Quan Phủ; với Hóa Kỵ; với Cự Môn hãm địa …

Hóa Quyền, Thiên Hình hay Tuần, Triệt: Hóa Quyền tượng trưng cho quan tước, gặp Hình hay Tuần, Triệt thì có gián đoạn công vụ, thông thường là bị bãi nhiệm, bị đổi chỗ hoặc phải thôi việc. Nếu có chức phận cũng không giữ được lâu bền, phải từ bỏ vì một nguyên nhân nào đó. Những sao đồng nghĩa với Hóa Quyền mà gặp một trong ba sao này cũng rơi vào tai họa tương tự. Đó là các bộ sao: Quốc ấn, Thiên Hình hay Tuần, Triệt; Phong Cáo, Thiên Hình hay Tuần, Triệt; Thái Dương hãm, Thiên Hình hay Tuần, Triệt. Thông thường, ý nghĩa mất việc chỉ rõ ràng nếu bộ sao này đóng đồng cung ở Quan, nếu chỉ hội chiếu thì việc mất chức không rõ ràng lắm, có thể là tự ý thôi việc. Một số quý tinh khác như Thai Phu, Đường Phù gặp Tuần, Triệt hay Hình không đến nỗi nặng lắm, có thể có nghĩa như hụt thăng trật, hụt huy chương …

Tuế, Đà, Kỵ: hội ở cung Quan chỉ mọi sự xui xẻo liên tiếp do sự tố cáo, chỉ trích, vu khống, xuyên tạc, đố kỵ, cạnh tranh làm cản trở bước tiến quan lộc, từ đó có thể đưa đến sự thôi việc, sự thay đổi công việc. Vì có Đà La, bộ sao này cho thấy có sự tranh cãi, gây lộn, ăn thua, khiếu nại, có khi ẩu đả giữa đồng nghiệp, xô xát với cấp chỉ huy để rồi cuối cùng gián đoạn công vụ.

b. Đè nén, đố kỵ

Phục Binh: điển hình cho sự hãm hại bằng thủ đoạn ngầm, sự đố kỵ, ghen ghét giữa đồng nghiệp hay giữa mình với cấp chỉ huy. Phục Binh còn có nghĩa âm mưu, kết bè, kết phái để đào thải, loại trừ đối thủ, có khi tổ chức phục kích, ám sát, thanh toán hoặc gài đương sự vào chỗ chết, chỗ kẹt, chỗ bị án, bị tù, bị quy trách. Thông thường, Phục Binh hay sử dụng mánh lới, thủ đoạn bất chính và bí mật để phá hoại đồng nghiệp, có khi liên kết với tòng phạm, bè cánh, tổ chức. Nếu có Tả Phù, Hữu Bật đi kèm thì nạn nhân phải chạm trán với cả một hệ thống chằng chịt bao gồm nhiều tay sai ở nhiều ngõ ngách, muốn khiếu nại cũng không được như ý, nhiều khi chẳng đi đến đâu.

Hóa Kỵ: chỉ đó kỵ, ganh ghét, cạnh tranh bằng thủ đoạn gièm pha, thêm bớt, thọc gậy. Hóa Kỵ là người bị nghi ngờ, bị theo dõi, bị để ý. Đi chung với Phục Binh, sự đố kỵ có tính cách ám hại, tầm thù, chẳng những bằng lời nói mà còn bằng hành động. Đi với Thiên Hình, Hóa Kỵ dễ sinh quan tụng, thưa gửi, khiếu nại, điều trần, cảnh cáo, khiển trách, ẩu đả lẫn nhau. Chỉ trừ khi đi với Thanh Long mới đẹp.

Thiên Không: chỉ phần tử lưu manh trong công/tư sở, chuyên môn phá hết kẻ này đến người khác, thọc gậy bánh xe, cản trở bước tiến của đồng nghiệp với ác tâm, có tà ý, âm mưu phá hoại. Bị Thiên Không, viên chức khó lòng ngóc đầu lên nổi, bị khép trong kỷ luật, khống chế, mình làm mà thiên hạ hưởng, bị cấp trên hay cấp ngang cướp công.

Đà La, Kình Dương: chỉ sự ngăn trở quan trọng vì ganh đua, cạnh tranh gay gắt. Tại vị trí hãm địa, đương số là nạn nhân của chia rẽ, phân hóa trong nghề nghiệp, làm việc nặng nhọc, gánh trách nhiệm mà bị tội vạ, hiểu lầm, khiển phạt. Những bạc bẽo của nghề thường do hai sao này quảng diễn.

Cự Môn hãm địa: đồng nghĩa với Hóa Kỵ nhưng nặng nề hơn. Con người Cự Môn cũng như Hóa Kỵ lúc nào cũng bất mãn, mưu tìm sự canh cải theo ý mình, không bảo thủ mà đấu tranh thay đổi thành phần bảo thủ. Nếu đắc địa thì việc đấu tranh có cơ hội thành công, trái lại, Cự Kỵ sẽ là nạn nhân của thái độ cấp tiến của mình, gánh lấy hậu quả của sự kìm chế, đè nén, cô lập. Đi chung với các sao ám khác như Thiên Không, Kình Dương, Đà La, Phục Binh, là những người hay kết bè kết đảng để đấu tranh. Nếu có sát tinh đi kèm thường có đổ máu, hình ngục, thanh toán, trả thù qua lại.

Tuế, Đà, Kỵ: tượng trưng cho những xui xẻo liên tiếp trong quan trường, trong nghề nghiệp, trong đó có sự đè nén, thị phi, gièm pha, đố kỵ.

Đại Hao, Tiểu Hao: đi chung với quyền, quý, dũng tinh, Nhị Hao thường chỉ sự sa sút hậu thuẫn, sự sút kém tín nhiệm, sự mất mát thế lực. Viên chức có Song Hao ở Quan, ngoài ý nghĩa hư danh, hư quyền, bị tổn thương uy tín, thất sủng, từ đó làm việc gì cũng không lâu bền, ở với ai cũng khó hòa hợp, có thể ngồi xơi chơi nước hay được giao những công việc chạy vặt, liên lạc, kém quan trọng. Về mặt tâm lý, Đại Tiểu Hao ở Quan còn chỉ những người đứng núi này trông núi nọ, bất mãn không khí đang sống, lúc nào cũng chực hờ, tìm chỗ tốt, chỗ bở, hay thay đổi chức vụ mà chũng chẳng hiển vinh gì bao nhiêu. Tính tình của Nhị Hao thường bất nhất, không bền chí, không kiên tâm tiến thủ trên cái gì đã có mà chỉ lo đổi chỗ để tìm lợi lộc, tìm thăng tiến. Nếu được đắc địa thì Nhị Hao có lợi hơn về mặt tài lộc, kinh nghiệm.

Thiên Khốc, Thiên Hư hay Tang Môn, Bạch Hổ: Trừ phi đắc địa ở Tý Ngọ, Khốc Hư ở Quan biểu tượng cho những ưu tư, lo buồn, hoang mang, sợ sệt khi hành nhiệm. Ngoài ra, còn có đặc tính bị khinh ghét, chê bai vì bất lực, bất hòa. Người có Khốc Hư ở Quan không thoải mái trong công việc, phải quan tâm lo lắng nhiều mối, vì nhiều lý do, có khi phải gánh chịu nhục nhã, xấu hổ bởi tai tiếng, bởi thị phi. Nếu đắc địa, các sao này chỉ uy tín và hoạt động chính trị cũng như năng tài hùng biện, giáo khoa, tâm lý chiến.

c. Bất dụng, sai dụng, thiểu dụng:

Lực Sỹ, Kình Dương: tượng trưng cho sự bỏ quên, việc ngồi chơi xơi nước, việc nghỉ giả hạn. Lực Sỹ chỉ tài năng, sự tháo vát, linh hoạt, lanh lợi đồng thời cũng ám chỉ thành tích, công lao, chiến tích. Kình Dương chỉ sự ngăn cản, trở lực, trục trặc trong công danh. Cả hai hội ý chỉ sự thi thố không hết mức tài năng, sự đãi ngộ bất xứng với thành tích, sự thiểu dụng, từ đó nảy sinh sự bất mãn, bất đắc chí. Kình Lực không nhất thiết ngụ ý người có tài mà lắm khi ngụ ý người tự cho rằng mình có tài, vì bị bạc đãi nên bất mãn. Kình Lực đôi khi chỉ tham vọng, sự cậy tài, sự ỷ lại quá đáng làm cho quần chúng ghét bỏ, xa lánh.

Thiên Mã, Tràng Sinh ở Hợi: Thiên Mã thông thường chỉ tài năng. Gặp thêm Tràng Sinh là có cơ may tiến đạt. Nhưng hiềm vì ở cung Hợi cho nên năng tài này bị chìm trong bóng tối. Đây là hạn người kém may, không có cơ hội thi thố được, hoặc chỉ có danh mà không có quyền, chỉ có hư vị hơn là thế lực, hoặc bị đặt vào chỗ tượng trưng để lợi dụng uy tín chứ không phải để hành sử quyền binh. Công lao của Mã Sinh ở Hợi thường chỉ ở trong bóng mờ, hay bị người khác lấn át. Nếu gặp Phục Binh, ngụ ý người có tài mà bị ruồng bỏ, bị gièm xiểm, bị đào thải …

Thiên Mã, Tuần, Triệt: không chỉ tai nạn xe cộ mà chỉ sự bất dụng, sự thiếu may mắn trong nghề nghiệp, làm cái gì cũng thất bại, tai ương, xui xẻo khiến cho thượng cấp mất dần tín nhiệm, không dám giao phó đại sự. Cho nên, công danh của Mã, Tuần, Triệt tương đối nhỏ.

Lộc Tồn, Tuần, Triệt: Lộc Tồn cũng chỉ tài năng như Thiên Mã, đặc biệt là tài tổ chức, quyền biến, khai sơn phá thạch, có nhiều sáng kiến giải quyết mọi việc. Gặp Tuần Triệt, tài năng, cơ may bị tiêu tán. Đó là trường hợp những người bị thiểu dụng, bị uổng dụng, bị sai dụng.

Thiên Tài: đi chung với Nhật, Nguyệt sáng sủa sẽ làm mất đi sự tốt đẹp, làm giảm ánh sáng của Nhật, Nguyệt. Đó là trường hợp tài năng thiếu cơ hội. Tại cung Quan vắng bóng những sao trợ quyền, những sao may mắn thì tài năng thường cô độc, thiếu người công lực, nâng đỡ, thiếu may mắn của thời cuộc. Đó là những sao Ân Quang, Thiên Quý, Tả Phù, Hữu Bật, Thiên Quan, Thiên Phúc, Thanh Long-Lưu Hà, Thanh Long-Hóa Kỵ, Thiên Mã-Tràng Sinh (trừ ở Hợi), Bạch Hổ-Phi Liêm, Tràng Sinh-Đế Vượng, Thiên Hỷ-Hỷ Thần, Tứ Linh, Tam Hóa …

4. Họa cho tài sản: thường hay xuất hiện ở hai cung Điền và Tài, ở những cung chiếu Điền (Tử, Tật, Bào), chiếu Tài (Phúc, Quan, Mệnh), cung Thân và các cung Hạn.

a. Những đại họa tài sản:

Địa Không, Địa Kiếp hãm địa: trong bối cảnh một cung Điền hay cung Tài xấu vì chính tinh hãm địa, sự hiện diên của 1 trong 2 sao hoặc của cả 2 sao này báo hiệu hiểm họa lớn lao cho tài sản, họa lớn, có tính chất bất khả kháng, ảnh hưởng đến nhiều người cùng một lúc. Có thể hình dung Không Kiếp như một tai họa chiến tranh làm tiêu tán tài sản, nạn lạm phát đồng tiền, thiên tai lớn, hành vi pháp lý của Nhà nước có hậu quả nặng nề đến cuộc làm ăn của toàn dân, việc quốc hữu hóa các công ty thương mại … Mặt khác, Không Kiếp còn có thể tượng trưng cho sự cướp của, sự hủy hoại tài sản cá nhân, sự đốt nhà, phá hoại hoa màu … Nếu hội với sao xấu như Phá Toái, Kiếp, Sát thì hệ số họa sẽ lên cao, nguy hiểm nhiều hơn. Càng hội tụ nhiều, số lượng càng chồng chất, họa vô đơn chí.

Thiên Không: hậu quả của Thiên Không trên tài sản cũng gần tương đương như Địa Không, nhất là khi tọa thủ ở Tài, Điền và nhất là khi gặp thêm hạn xấu. Hội với Địa Không, Địa Kiếp, sức tác họa càng dữ thêm, có hại đến cả sinh mạng. Thông thường, Thiên Không rơi vào cung hạn thì tác họa mạnh mẽ hơn bình thường: các dự định đều thất bại, sự nghiệp sa sút, mua bán thua lỗ, mất của thường do lường gạt, lừa đảo, có khi vướng vào tù tội.

Tuần, Triệt đồng cung ở Điền, Tài: dù Điền hay Tài có chính tinh hay không, có cát tinh đi nữa thì cũng không quân bình được bất lợi của cả Tuần lẫn Triệt đồng cung. Hai sao này hợp nhất phối hợp phá hoại tài sản đến cùng. Gặp chúng, cá nhân không có di sản, dù có cũng bán hết hoặc không thể thụ hưởng, thường phải tự lực lập nghiệp nhưng có rồi lại dễ mất ngay vì họa, hoặc vì túng thiếu. Đây là bộ sao điển hình của vô sản.

Kình Dương, Đà La hãm địa: cũng báo hiệu họa tài sản, dưới hình thức phá tán tổ nghiệp, điền trạch cũng như tiền bạc. Đi với Không, Kiếp, Thiên Không, ý nghĩa họa càng chắc chắn hơn và họa nhất định nặng hơn. Đặc biệt vào cung hạn, nếu Kình Đà gặp Lưu Kình, Lưu Đà thì họa đến mau chóng và khủng khiếp. Nếu Kình Đà và hai sao Lưu lại tọa thủ hoặc xung chiếu vào Điền, Tài thì họa vào sản nghiệp hiện có thay vì di sản.

Hỏa Tinh, Linh Tinh: chỉ riêng mối họa lửa, dù Hỏa Linh đơn thủ hay hội họp với sát hao tinh khác. Hai sao này đi chung với một số sao khác cũng mang ý nghĩa tương tự như: Hỏa Kiếp Cơ, Hỏa Tang, Linh Hình Việt, Phi Hỏa, Cự Hỏa, Cơ Hỏa, Hỏa Linh Tướng Binh. Chỉ riêng bộ sao Hỏa Tướng Binh hay Linh Tướng Binh có nói ít nhiều đến nguyên nhân hỏa hoạn: đó là việc gian phi đốt nhà, đốt ruộng, đốt hoa màu, hàng hóa.

Lưu Hà: thủy họa đối với tài sản, đi chung với Địa Không, Địa Kiếp chỉ tại họa lớn: nước lụt đắm tàu, hoa màu úng thủy, hàng hóa bị ngập nước …

Đại Hao, Tiểu Hao: Trừ phi đắc địa ở Mão, Dậu (có tiền của dồi dào), Nhị Hao bao giờ cũng phá tán của cải, hao hụt điền sản thường là do cái đà ăn xài quá lớn không kìm hãm được nữa. Song Hao ở Điền, Tài thường xuyên có chuyện tốn kém, lớn có nhỏ có và liên tiếp. Sự hao tán của bộ sao này gần như triền miên. ở Điền, Nhị Hao ngụ ý phải lo “một kiểng hai huê”. ở Tài thì luôn luông có chuyện phải tiêu lớn, tiêu nhỏ. Nếu Thiên Không tối kỵ ở cung Quan thì Nhị Hao tối kỵ ở cung Tài và cung Điền. Ngoài ra, về bệnh tật, Nhị Hao phải tốn vì một bệnh trầm kha, tái đi tái lại nhiều lần, thường là bệnh về bộ máy tiêu hóa tương đối nặng.

Tướng, Binh, Kiếp hay Không: chỉ họa cướp của. Đóng ở Điền, Tài, đương số sẽ bị cướp đến khảo của, phá nhà, tống tiền, có thể bị thanh toán. Nếu có thêm Tả Hữu thì thường có nội gián, tòng phạm lâu la đông đảo. Bộ sao này cũng nói lên trường hợp bị cưỡng bách đóng thuế bằng cách hành hung, đe dọa sinh mạng hoặc bắt cóc đòi tiền chuộc. Trong trường hợp có bắt cóc tống tiền thì thường có Thiên Hình đi kèm.

b. Những tiểu họa tài sản:

Phục Binh: điển hình cho sự mất trộm. Cung Điền, Tài bị sao Binh trấn đóng hay hội chiếu thường bị người khác lấy của bằng cách trộm, lừa đảo, ăn chặn, quỵt hụi, trốn nợ, giựt đồ, móc túi … Có khi tai họa không do thủ phạm mà do sơ xuất của chính mình, dù sao cũng là sự mất mát ngoài ý muốn của sở hữu chủ.

Binh, Tả, Hữu: có tòng phạm giúp đõ, chỉ dẫn, dụ dỗ, đánh lừa để lấy đồ bằng mưu chước xảo quyệt. Có khi Tả Hữu còn chỉ tôi tớ trong nhà, làm nội ứng chỉ điểm cho gian phi, hoặc chính người giúp việc trộm cắp của chủ nhân. Bộ sao này cho thấy việc đánh cắp có tổ chức, có kế hoạch.

Thiên Không: đứng riêng rẽ, sao này chỉ tên lưu manh, gian hùng, xảo quyệt, có nghĩa tương tự như Phục Binh. Nếu cả hai cùng hội tụ thì đây là cách gian phi họp đang, tác họa nhiều hơn.

Quan Phù, Thái Tuế, Quan Phủ, Hóa Kỵ: chỉ hao tài sản do sự lường gạt, phản bội, hoặc do kiện tụng mà hao hụt của cải, kiện tụng về tài sản cụ thể như bị xử ép, chia của không sòng phẳng, thanh toán không phân minh.

ứng vào điền sản, những sao này cho thấy phải có tranh chấp về đất đai, ruộng vườn, phải tốn tiền vì điền thổ mới có của, phải kiện thưa mới đuổi được người cư ngụ bất hợp pháp mới cất được nhà. Cũng có thể nhà, đất của mình không có lai lịch phân minh, bị tố tụng, thưa kiện và có khi thất kiện phải mất đất, trả nhà.

Thiên Hình: ở Điền, Tài, sao này chỉ họa của người bị bắt giam vì tài sản, bị họa lụy vì tiền bạc hoặc nếu là điền sản thì có thể bị tịch thu, tịch biên. Đây là trường hợp những người bị bắt để đổi tiền chuộc mạng, của bọn khảo của, tống tiền, thu thuế bằng bạo hành, đe dọa. Nếu đương số làm nghề tài chính, thì Hình sẽ ứng vào các vụ biển thủ, quản lý sơ suất để mất tiền phải bị ra tòa, đền tiền. Nếu ở cung Điền, nhà đất dễ bị tịch thu, sai áp, niêm phong do một án tiết cá nhân, có liên quan đến của cải bất hợp pháp hoặc đến uy thế chính trị suy sụp. Nếu ứng vào cơ thể có nghĩa thương tích thì ứng vào điền trạch cũng có nghĩa bế tỏa như vậy. Bị Thiên Hình, cơ xưởng, làm ăn có thể bị sai áp, quốc hữu hóa, trưng dụng, trưng thu. Nếu có thêm sát tinh khác, đây có thể là đại họa.

Điếu Khách, Văn Xương, Văn Khúc: chỉ họa hao tài vì đánh bạc, thông thường có đi đôi với Song Hao, hoặc Khốc Hư, Tang Hổ, Xương Khúc thì thỉnh thoảng có đỏ đen, còn Điếu Khách thì máu cờ bạc quá nặng đến nỗi trở thành tập quán khó chừa, lấy đổ bát làm sinh kế và chắc chắn cũng vì đổ bát mà tán tài, tán điền.

Hỏa, Linh với Song Hao: họa tài sản bắt nguồn từ bệnh nghiện thường là nghiện á phiện, ma túy, rượu, rất nguy kịch cho của cải và sức khỏe. Không cần gì phải có cả Hỏa và Linh với Song Hao, chỉ cần Hỏa hay Linh cũng đủ.

Đào, Hồng với Song Hao: họa tài sản do gái/trai tạo ra. Đây là hoàn cảnh của các chàng hào hoa bị dại gái bị lừa gạt, phải chi khá nhiều để chu cấp cho gái hoặc phụ nữ mê trai cũng chu cấp cho các chàng thất nghiệp. Đào Hồng ở Tài, Điền thì phải tốn tiền ít nhiều cho tình nhân, nếu có Song Hao thì chi phí lớn theo tỷ lệ túi tiền của nạn nhân.

5. Họa cho gia đạo:

a. Tình trạng không chồng, không vợ:

– cung Phúc có những chính tinh hãm địa, đi chung với những sao tình duyên bị sát tinh xâm phạm.

– cung Phu Thê cũng gặp phải nghịch cảnh này, nhất là bị sát tinh tọa thủ đồng cung với các sao tình duyên hoặc là được các sao tình duyên hội chiếu vào sát tinh tọa thủ ở Phu Thê. Càng có nhiều sát tinh, nhất là sát tinh hạng nặng tọa thủ hay hợp chiếu thì triển vọng lập gia đình càng giảm. Ngoài ra, hai sao Tuần Triệt ở Phu Thê nhất là đồng cung cũng góp phần xác định ý nghĩa này.

Nếu cả Phúc lẫn Phu Thê đồng thời gặp nghịch cảnh thì dễ đoán việc vô gia đình (đặc biệt là với lá số nữ giới).

Nếu Mệnh, Thân có hao bại tinh (Tang, Hổ, Cô, Quả, Đẩu Quân, Khốc, Hư, Đại Tiểu Hao) thì phải xem đó là một yếu tố bổ túc để quyết đoán thêm trường hợp độc thân bắt buộc.

Cung Tử tức có nhiều sao hiếm muộn, tuyệt tự, lập tự.

Vòng đại hạn đi theo chiều thuận tức là ngày càng xa cung Phu Thê. Đây là một yếu tố bổ túc phải lưu ý. Nếu đi theo chiều nghịch thì vào khoảng 30 tuổi trở đi, vấn đề gia đạo dễ xảy ra hơn vào khoảng thập niên 32 trở đi vì tại đó cung Phu Thê trấn ngự, ngụ ý có sự chi phối khá mạnh, sự thúc đẩy khá lớn, sự quan tâm đặc biệt của con người về vấn đề gia đạo.

Sự lạc vị của những sao tình duyên: nếu các sao đó đóng ở Tật, Tử, Bào, Phụ, Điền thì cái duyên bị đặt sái chỗ, không lợi cho sự sum họp.

b. Tình trạng giang hồ, lãng tử:

– sự hiện diện của rất nhiều sao tình dục ở cung Mệnh, cung Thân: Thiên Riêu, Thai, Mộc Dục, Hoa Cái, Đào Hoa, Hồng Loan, Liêm Trinh, Tham Lang …

– sự hiện diện của những sao này ở cung Nô chỉ con người đó rất sa đọa, trụy lạc, ăn chơi, đàng điếm, không kể dư luận, đạo đức.

– sao khắc chế tình dục không có hoặc không đủ mạnh ở các cung Mệnh, Thân.

– đối với phái nữ, sao tình dục có đi chung với sao tài, ngụ ý rằng tiền bạc kiếm được bằng nhan sắc, bằng hương phấn.

– cung Phu Thê bị Tuần, Triệt đồng cung hoặc 1 trong 2 án ngữ, tiên niệm sự trục trặc, sự bất hạnh về gia đạo hoặc sao cô độc như Cô, Quả, Đẩu, Quân.

– cung Phu Thê có nhiều sao chỉ sự thay đổi cụ thể như Thiên Đồng, Thiên Mã, Đại Hao, Tiểu Hao, ngụ ý đương số thường thay đào đổi kép.

– riêng số phụ nữ còn có những bộ sao nói lên họa trinh tiết

– cung Mệnh, cung Thân của hai phái có nhiều sao nói lên tính nết lãng tử, giang hồ, ham vui, chóng chán, thích thay đổi, phiêu lưu tình cảm.

– cung Phúc có nhiều sao bất hạnh về gia đạo.

c. Tình trạng hôn nhân trắc trở:

Phục Binh: nếu đóng hay chiếu vào cung Phu Thê, chỉ sự cản trở. ở vị trí tọa thủ, sự cản trở mạnh mẽ hơn, gây trở ngại lớn hơn ở vị thế hội chiếu. Sao này tượng trưng cho sự đổi ý của người con trai hay con gái, sau khi yêu nhau rồi mới khám phá những chỗ kẹt, chỗ ngang trái khiến không thể lấy nhau. Nó cũng tượng trưng cho sự chống đối mạnh mẽ của cả hai bên nhà trai nhà gái hoặc của một bên và sự chống đối này do cha mẹ chủ xướng, tức là những người có quyền quyết định tối hậu cuộc tác thành. ở vị thế hội chiếu, có thể ban đầu chống đối rồi sau cũng thuận cho.

Hóa Kỵ: ý nghĩa tương tự như Phục Binh nhưng nhẹ hơn. Hóa Kỵ ở Phu Thê thường là sự bất hòa giữa hai họ để rồi trai gái phải xa nhau, bắt nguồn từ những câu nói vụng về của nam hay nữ hoặc của họ bên này chê bai họ bên kia hoặc cũng có thể bắt nguồn từ một đệ tam nhân ngoại cuộc vụng lời, thêm bớt.

Cự Môn: dù đắc hay hãm địa, Cự Môn ở Phu Thê bao giờ cũng khó khăn dài dài, trước khi lấy nhau và sau khi thành hôn. Cự Môn chủ đa nghi: bên nọ nghi ngờ bên kia, thôn tính con dâu hoặc sắp xếp cho con mình vào tròng để lợi dụng. ở vị trí đắc địa, sự việc có thể tiền hung hậu kiết nhưng ở thế hãm địa thì có thể tiền hậu đều hung.

Thiên Không: chỉ sự cản trở, chủ yếu là do sự bố trí có thủ đoạn của một bên cho bên kia mắc kẹt. Trò chơi của Thiên Không rất nguy hiểm, nếu có thêm sao xấu đi kèm, hôn nhân rất nhạy rã đám.

Thiên Hình: ở Phu Thê, Hình báo hiệu sự hình thương gia đạo, có thể là sự trắc trở hôn nhân buổi đầu. Mặt khác, vì Hình chỉ sự xét nét quá tinh vi cho nên ngụ ý rằng có một bên tính kỹ quá, đòi hỏi điều kiện chặt chẽ, khó khăn khiến bên nọ không với tới làm cho hôn nhân bị hỏng hoặc trì trệ kéo dài. Cuộc thương thuyết có Thiên Hình hẳn phải hết sức gay go và đầy cạm bẫy.

Khốc, Hư, Tang, Hổ: hai trẻ phải nhiều lần điêu đứng, rơi lệ, đau khổ, phải đấu tranh cho sự hòa hợp bằng nước mắt. Nếu có cả 4 sao thì 4 dòng lệ đều chan hòa, duy có riêng một sao cũng mệt sức lắm rồi. Trong một ý nghĩa khác, 4 sao này còn có nghĩa là cưới xin trong tang khó.

d. Tình trạng gia đạo bất hòa:

– cung Phu Thê phải có hao bại tinh, ám tinh, hình tinh, cụ thể là Cự Môn, Phục Binh, Hóa Kỵ, Thiên Hình, Thiên Khốc, Thiên Hư, Tang Môn, Bạch Hổ.

– cung Phu Thê phải có sao cô độc như Cô Thần, Quả Tú, Đẩu Quân; sao khắc khẩu như Thái Tuế, Trực Phù.

– cung Phu Thê phải có sao ghen tuông, cãi vã, khó tính, câu chấp, ngỗ ngược, ngoan cố, lấn át, bướng bỉnh

– nguyên nhân của mọi bất hòa.

– hai lá số của nam nữ có Bản Mệnh khắc nhau.

– có thể chính tinh ở cung Mệnh số người này mà nghịch cách với chính tinh ở Phu/Thê của số người kia thì cũng xung khắc.

e. Tình trạng ngoại tình:

+ Điều kiện về tính chất:

– lá số của nam hay nữ phải chất chứa một nết tình mạnh thiên về nhục dục, hoặc sự si tình, lụy tình, đồng thời với tính nết ham vui chơi, ưa hoang phí, thích thay cũ đổi mới, táo bạo, trí trá …

– phải có nhiều cơ hội tốt cho việc phát tác tình dục biểu lộ trong cung Di, cung Nô, qua những sao ái tình tọa thủ tại 2 cung này. Những lá số có Thân cư Di hội nhiều sao tình dục là ví dụ điển hình.

– ngoài điều kiện tích cực, còn có điều kiện tiêu cực là thiếu sự khắc chế tình dục, hoặc sự khắc chế không đủ mạnh so với các sao tình dục hiện diện.

+ Điều kiện về sao:

– nhất định phải có nhiều sao tình dục hội trụ hoặc tập trung vào những cung cường, sao đồng cung hoặc sao tình dục hạng nặng (Thai, Riêu, Tham, Đào) …

– phải có sao đa phu, đa thê

– phải có sao bất hòa gia đạo, chửa hoang

– phải có sao bất hạnh (ly tán, đau khổ) gia đạo

+ Điều kiện về cung:

– sao tình dục phải xuất hiện ở các cung Mệnh, Thân, chiếu Mệnh, chiếu Thân hoặc ở cung Phúc.

– sao tình dục phải có ở cung Phu Thê

– sao tình dục phải có ở cung Nô, Di

– nếu xuất hiện ở cung Hạn (ngoài các cung nêu trên) thì vấn đề ngoại tình xảy ra nhất thời trong hạn đó

– cung Tử có những sao hai dòng con: cùng mẹ khác cha hay cùng cha khác mẹ

+ Điều kiện thuộc hoàn cảnh:

– lá số phải được cứu xét trong xã hội có sa đọa hay không

– nếp sống đương số có sa đọa hay không;

– cần lưu ý thêm là việc sợ vợ, sợ chồng lắm khi không phải là yếu tố kìm hãm ngoại tình.

+ Những dè dặt cần thiết:

– sao tình dục hay sao ái tình có khi chỉ có nghĩa là có duyên (Hồng Loan) hay đẹp đẽ (Đào Hoa, Văn Xương, Văn Khúc) hay dâm đãng mà không ngoại tình, hoặc cưới xin dễ dàng;

– lưu ý tránh ngộ nhận số ngoại tình với số giang hồ, lẽ mọn, lãng tử;

– gặp trường hợp Thân cư Thê/Phu có những sao ngoại tình cũng phải dè dặt;

– gặp số có hai đời vợ, hai đời chồng phải dè dặt thêm: có khi là hai vợ, hai chồng đồng thời, có khi là hai đời vợ/hai đời chồng liên tiếp, không trùng hợp nhau.

g. Tình trạng chia ly: sự chia ly ở đây bao hàm hai trường hợp ly thân hay ly hôn chứ không nói đến sự xa cách để làm ăn hay vợ một nơi chống một ngả vì có thuyên chuyển, không nói đến việc một trong hai người chết nửa chừng xuân.

Những điều kiện trực tiếp của tình trạng chia ly gồm có:

– cung Phu Thê bị Tuần, Triệt đồng cung;

– cung Phu Thê bị sát tinh xâm phạm;

– cung Phu Thê bị ám tinh, hao bại tinh, hình tinh đi với sao thay đổi, sao đau buồn, nước mắt, cô độc;

– cung Phu Thê có sao chỉ hai đời chồng/vợ;

– cung Tử có những sao chỉ con dị bào;

– lá số của hai vợ chồng có Bản Mệnh khắc nhau;

– cung Phúc có nhiều sao bất hạnh gia đạo (cao số, dang dở);

– cung Mệnh Thân có nhiều sao xui xẻo, đau buồn, nhất là với nữ số;

– có những chỉ dấu ngoại tình ở vài cung như Nô, Di;

– thiếu sao giải mạnh và nhiều

Đi vào chi tiết, cần lưu ý các sao sau:

– Những bộ sao của Tử Vi:

Chỉ có Tử Sát và Tử Phá đồng cung nói lên sự chia ly khả hữu:

Tử Sát: nếu hôn nhân bị trắc trở buổi đầu hoặc nếu muộn lập gia đình thì có thể tránh được chia ly. Tuổi muộn thông thường là quá ba mươi. Thất Sát vừa chỉ sự không may, vừa chỉ sự chậm chễ.

Tử Phá: Phá Quân chỉ sự hao tán phu thê cho nên dù đi với Tử Vi cũng không giảm bất lợi. Vợ chồng phải bị chia ly, hình khắc sau khi hiềm khích, giận hờn, gây gổ nhau.

– Những bộ sao của Liêm Trinh:

Liêm ở Dần, Thân: vợ hay chồng phải chắp nối nhiều lần, có họp rồi lại tan, chưa kể việc lấy chồng/vợ nghèo.

Liêm Tướng: hai người không từ biệt cũng chia ly, sau khi gây gổ nhau thường xuyên.

Liêm Tham: cũng chia ly, thông thường có một người bị hình tù.

Liêm Sát: vừa chậm gia đình vừa chia ly.

– Những bộ sao của Thiên Đồng:

Đồng ở Thìn, Tuất: thông thường là bất hòa, nếu không hoặc tử biệt hoặc chia ly.

Đồng, Âm ở Ngọ: nếu muộn gia đạo có thể tránh chia ly. Thường người vợ có lỗi vì Âm hãm ở Ngọ.

Đồng Cự: Vợ chồng hay gây gổ nhau, nghi ngờ nhau, thường bỏ nhau vì mạ lỵ thậm tệ. Sao Cự chỉ ngôn ngữ bất cẩn, cãi vã, thị phi.

– Những bộ sao của Vũ Khúc:

Vũ Sát: sự khắc kỵ gia đạo hết sức nặng nề, mang lại tai họa cho vợ chồng lúc sống chung, một sống một chết, nếu không cũng chia ly.

Vũ Phá: chia ly xảy ra nếu sớm lập gia đình. Vì có Phá Quân, nên có thể hai lần tác hợp.

– Những bộ sao của Thái Dương, Thái Âm:

Dương hãm địa hay Âm hãm địa: nếu muộn gia đình thì tránh được chia ly, duy vợ chồng hay bất hòa và trước khi lấy nhau thường gặp trắc trở.

Cự Dương ở Thân: ý nghĩa như trên.

Âm Dương đồng cung: nếu muộn gia đình thì có thể tránh được cảnh chia ly.

– Những bộ sao của Thiên Cơ:

Cơ Cự: chia ly nếu sớm gia đạo. Sự hiện diện của Cự Môn thường bất lợi cho gia đạo, thường báo hiệu việc bất hòa, gây gổ, hai vợ, hai chồng.

Cơ Nguyệt ở Dần: trắc trở trong việc cưới xin và nếu sớm lập gia đình dễ chia ly.

– Những bộ sao của Tham Lang:

Tham ở Thìn, Tuất: sớm lập gia đình thì dễ chia ly. Vợ thì hay ghen tuông, chồng thì chơi bời.

Tham ở Dần, Thân: vợ chồng dâm đãng, dễ bạc tình, dễ kết hợp nhau cũng dễ chia ly.

– Cự Môn ở Thìn, Tuất, Tỵ: phải trắc trở trước khi lập gia đình; bất hòa lúc sống chung; phải chia ly, 2 hoặc 3 lần lập gia đình.

– Những bộ sao của Thiên Tướng:

Tướng ở Tỵ, Hợi, Sửu, Mùi: sớm lập gia đình thì sẽ bất hòa và dễ chia ly. Đời sống vợ chồng rất cần sự nhịn nhục, vì Thiên Tướng chỉ nóng nảy và lấn át.

Tướng ở Mão, Dậu: ý nghĩa tương tự. Lúc cưới nhau hay gặp cản trở.

– Những bộ sao của Thất Sát:

Sát ở Thìn Tuất: phải vài lần lập gia đình, khó tránh được chia ly.

Sát ở Tý Ngọ: nếu sớm gia đạo, dễ chia ly. Vợ chồng là con trưởng, cả hai rất ghen tuông.

– Những bộ sao của Phá Quân:

Phá ở Thìn, Tuất: nếu sớm thành gia đạo thì chẳng những phải chia ly mà còn phải nhiều lần lập gia đình.

Phá ở Dần, Thân: ý nghĩa càng nặng hơn; vợ chồng chắc chắn phải chia ly vì nguyên nhân ngoại tình.

Phá Quân đắc địa ở Tý, Ngọ: vợ chồng tối thiểu cũng có lúc xa nhau rất lâu.

– Thiên Mã, Tuần, Triệt ở Phu Thê: Tuần Triệt ở Phu Thê chỉ sự bất hạnh lớn lao và liên tiếp, có tính cách lâu dài của đời sống vợ chồng, thậm chí có thể xem như không có vợ/chồng. Chẳng những Tuần, Triệt ở Phu Thê cho thấy sự dang dở mối tình đầu mà còn dang dở vài mối tình kế tiếp. Đời sống gia đạo không những triền miên bất hòa mà có thể đi tới gián đoạn vĩnh viễn. Trong bối cảnh đó, sự có mặt của Thiên Mã càng xác nhận thêm sự ly cách giữa hai vợ chồng. Nếu Thiên Mã được thay bằng những sao Thiên Đồng, Đại Tiểu Hao cũng chỉ sự thay đổi, có lẽ ý nghĩa cũng tương tự.

– Địa Không, Địa Kiếp ở Phu Thê: vợ chồng xa nhau, cụ thể là bỏ nhau, chưa kể có thể một người phải chết. Nếu Không Kiếp đắc địa thì chỉ có thể đoán là tạm thời xa nhau, dưới hình thức ly thân hoặc là người sống một nơi kẻ ở một ngả, lâu lâu mới sum họp một lần hoặc là phải gặp ngang trái nặng trong tình duyên.

– Quan Phù, Thái Tuế, Quan Phủ: Quan Phủ, Quan Phù chỉ sự phản bội, sự thiếu chung thủy đồng thời cũng có nghĩa kiện tụng. Thái Tuế chỉ cả kiện cáo lẫn cãi vã, đồng thời cũng chỉ sự mất mát tình thương. Như vậy, bộ sao trên có thể báo hiệu cho sự xung đột giữa hai vợ chồng đưa đến tình trạng lôi nhau ra tòa phân xử, xin ly thân hay ly hôn. Nếu không có chuyện kiện nhau thì vẫn có chuyện âm thầm bỏ nhau, mỗi người một giang sơn, tự do của ai nấy giữ, không còn sự ràng buộc nào giữa hai người.

– Thiên Hình ở Phu Thê: vấn đề tòa án hầu như không tránh được nhất là khi Hình đi chung với một trong ba sao trên. Thiên Hình giúp xác nhận thêm sự ly hôn, ly thân một cách chính thức. Ngoài ra, Hình còn ngụ ý rằng hai vợ chồng có cãi vã đến nỗi đánh đập nhau hoặc người này hành hung người kia. Ngoài ra, Hình có nghĩa là tù ngục nên có thể có một người ở tù sau cơn ẩu đả. Nếu đi chung với Thái Tuế thì có “mạ lỵ thậm từ” và có đánh lộn gây thương tích nhưng chỉ Thiên Hình cũng đã quá đủ.

– Cô, Quả, Đẩu Quân ở Phu Thê: riêng 1 trong 3 sao này thật sự không đủ để minh chứng tình trạng ly cách. Nó cần phải đi chung với những sao kể trên. Riêng việc đơn thủ mà thôi thì Cô hay Quả hay Đẩu Quân chỉ sự cô đơn, cô độc dưới nhiều hình thái: hoặc có chồng/vợ vẫn ở chung với nhau mà bị cô đơn vì chồng/vợ không hiểu mình, không bệnh vực mình trước gia đình bên chồng hoặc có vợ/chồng ở chung nhau nhưng không có sự thắm thiết, hầu như mỗi người có ưu tư và nếp sống riêng rẽ, ít khi đồng thuận, không có chung thủy hoặc đối với nữ số, có thể vẫn là vợ chính thức nhưng vẫn bị bỏ rơi vì chồng có vợ lẽ, cả hai cũng vẫn không chia ly hoặc đối với nam số, có thể rơi vào tình trạng vợ lăng loàn, nhưng đành cam chịu vì sợ uy tín, xấu hổ hay sợ vợ …

h. Trường hợp tử biệt:

– cung Phu Thê có Tuần, Triệt riêng rẽ hoặc đồng cung trấn thủ, hội với sát tinh, có thể hội thêm với hình tinh, hao bại tinh, ám tinh;

– cung Mệnh đương số có Cô, Quả, Đẩu Quân, Tang, Hổ;

– số của hai vợ chồng đối khắc Bản Mệnh và một trong hai lá số rơi vào đặc điểm đầu tiên;

– những bộ sao chỉ họa cho tính mệnh xuất hiện trong lá số của một người;

– có những bộ sao chỉ tình trạng chia ly kể trên;

– có những sao chỉ tình trạng hai đời vợ/đời chồng trong lá số. Việc có con 2 dòng chỉ yếu tố phụ đới, chỉ có giá trị quyết đoán khi gặp trường hợp đầu tiên.

i. Tình trạng án mạng trong gia đạo:

– một trong hai lá số có những sao sát, nói lên sát nghiệp của người đó, trong khi lá số người kia có những bộ sao chết vì án mạng hoặc yểu. Trong cả hai trường hợp, đều thấy xuất hiện sát tinh hạng nặng như Địa Không, Địa Kiếp, Hỏa Tinh, Linh Tinh, Thiên Hình, Kiếp Sát, Kình Dương, Đà La. Đôi khi có những sao như Phục Binh, Thiên Không, Tang Môn, Bạch Hổ. Sát tinh hầu hết bị hãm địa, nói lên nghiệp chướng.

– cung Phu Thê của hai lá số đều gặp nhiều trường hợp bất lợi kể ở các đoạn nói về chia ly, tử biệt, họa cá nhân, họa ngục hình;

– xét về nguyên nhân, án tình thường bắt nguồn từ sự phản bội của vợ/chồng. Vì vậy, trong số phải có những bộ sao phản bội, lăng loàn, ngoại tình, con dị bào …

– xét về hậu quả, án tình, nếu thủ phạm còn sống sót, thường hay đưa đến hình ngục, kiện cáo …

– xét về sự trùng phùng, cần quan tâm đến sự hội tụ của sát tinh, hình tinh, hao bại tinh, ám tinh đồng cung hoặc xung chiếu với các sao tình duyên trong một đại hạn hay tiểu hạn nào đó;

– sự đối khắc giữa hai Bản Mệnh trong trường hợp này nhất định phải có;

– cần lưu ý đến những sao nói lên cá tính của thủ phạm và nạn nhân. Thủ phạm phải là người tự ái, ghen tuông quá mức, nóng nảy, ích kỷ tột độ, có ác tâm, có sát nghiệp. Nạn nhân là người dâm đãng, trắng trợn, ngang tàng, mạo hiểm, thủ đoạn, dối trá, bê tha, đam mê …

6. Họa cho con cái:

(thiếu)

Sự hiện diện của Song Hao cho thấy phải tốn kém nhiều lúc dưỡng thai và lúc dưỡng nhi cũng như lúc sinh nở.

Thai, Lưu Hà: chỉ sản tai, tức là tai họa lúc sinh sản, thể hiện dưới hình thái mẹ chết lúc sinh, thường là do băng huyết hoặc lúc sinh bị máu ra nhiều vì Lưu Hà chỉ máu loãng xuất huyết.

Thai, Tuần, Triệt: không kể trường hợp phá thai, bộ sao này có nghĩa là bào thai yểu tử, nhất là khi gặp cả Tuần lẫn Triệt.

Thai, Quan Đới: Quan Đới chỉ cái chết bất đắc, không tự nhiên. Đi với Thai thì dễ hư thai hoặc hài nhi sơ sinh chết bất thần. Gặp thêm sao xấu, nhất là Không Kiếp, có thể báo hiệu cái chết của mẹ lẫn con.

d. Tình trạng con hư đốn:

Nếu con hư vì sắc dục, trinh tiết thì tại cung Tử sẽ có những sao về họa sắc dục, trinh tiết, giang hồ. Nếu con hư vì cờ bạc, hút sách, trộm cướp thì cung Tử có những sao hao tán tài sản vì cờ bạc, hút sách, trộm cướp … Nếu con bị hình tù thì những cách hình tụng nói trong họa tụng ngục xuất hiện tại cung Tử. Trường hợp chết dữ thì đã có sao họa cho sinh mệnh cơ thể kể trên. Ngoài ra,

Tham ở Thìn, Tuất hay Thất Sát: cung Tử có Tham Lang hay Thất Sát ở Thìn, Tuất thì có con bất mục, bất hiếu, khó dạy, ngỗ ngược.

Lương, Đồng ở Tỵ, Hợi: con chơi bời, lãng tử, nam thì kết đảng gian phi, nữ thì dâm đãng hoang phí. Có thêm Mã thì thường bỏ nhà đi bụi đời.

Kình, Đà, Không, Kiếp hãm địa: chỉ con cái du đãng, bất lương, mất dạy.

Binh, Hình, Kiếp, Kỵ: đồng nghĩa như trên nhưng nặng nề, xấu xa hơn. Đó là những gian phi hiểu theo nhiều nghĩa côn đồ, trộm cướp, hiếp dâm, phiến loạn, vào tù ra khám nhiều lần. Thông thường, đây là cướp có tổ chức, có nhiều bè đảng, lâu la giúp đỡ.

Đẩu Quân và nhiều sao xấu: con hoang phí, xài phá hết của cha mẹ.

Đào hay Riêu: con chơi bời, đĩ điếm, lẳng lơ, hoa nguyệt. Nếu có sao Thai thì con gái có chửa hoang, bỏ nhà theo trai.

e. Tình trạng con bất hòa:

Cự Môn: dù đắc hay hãm địa, chỉ sự nghi kỵ, đố kỵ, ganh ghét, nói xấu, chỉ trích giữa con cái hoặc giữa con dòng lớn và con dòng nhỏ.

Phục Binh hay Hóa Kỵ: ngoài ý nghĩa của Cự Môn, Binh Kỵ còn chỉ sự toa rập sang đoạt, ám hại lẫn nhau, phá hoại nhau.

Thiên Hình, Quan Phù, Quan Phủ: con cái có thể kiện tụng nhau, hiềm khích nhau, coi nhau như người dưng nước lã.

7. Họa cho cha mẹ:

a. Cha mẹ chết sớm: biểu hiện qua những đặc điểm chính sau:

– cung Phúc xấu hoặc tầm thường;

– cung Phụ bị Tuần, Triệt đồng cung trấn thủ;

– cung Phụ có Âm, Dương sáng bị Tuần, Triệt;

– cung Phụ, cung Mệnh có hao bại tinh, đặc biệt là Tang Môn, Bạch Hổ;

– cung có Thái Dương (cha), cung có Thái Âm (mẹ) có Tang Hổ, Đại Tiểu Hao gặp sát tinh;

– số của cha, mẹ có cách yểu.

Vị trí của Âm Dương cùng với giờ sinh có thể giúp đoán được cha hay mẹ mất trước, cụ thể như sau:

– Âm Dương đều sáng sủa: cha mẹ thọ (thông thường)

– Dương sáng, Âm mờ: mẹ mất trước cha

– Dương mờ, Âm sáng: cha mất trước mẹ

– Âm Dương cùng sáng: sinh ban ngày: mẹ mất trước; sinh ban đêm: cha mất trước

– Âm Dương cùng mờ: sinh ban ngày: cha mất trước; sinh ban đêm: mẹ mất trước

– Âm Dương đồng cung ở Sửu Mùi: không có Tuần, Triệt đồng cung: sinh ngày – mẹ mất trước, sinh đêm – cha mất trước; gặp Tuần hay Triệt đồng cung: sinh ngày – cha mất trước, sinh đêm – mẹ mất trước.

Việc mất trước không bắt buộc là mất sớm. Việc tính sớm, trễ phải dựa vào cung Phụ Mẫu, qua những bộ sao dưới đây:

– Tử Vi, Phá Quân đồng cung

– Tử Vi, Tham Lang đồng cung

– Liêm Trinh ở Dần, Thân

– Liêm Trinh, Thất Sát đồng cung

– Liêm Trinh, Tham Lang đồng cung

– Thiên Đồng ở Thìn, Tuất

– Thiên Đồng, Cự Môn đồng cung

– Vũ Khúc

– Vũ Khúc, Phá Quân đồng cung

– Thái Dương ở Thân, Dậu, Tuất, Hợi, Tý

– Thiên Cơ, Thái Âm ở Dần

– Thiên Cơ, Cự Môn đồng cung

– Thiên Phủ ở Sửu, Mùi, Mão, Dậu

– Thái Âm ở Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Dần

– Tham Lang

– Cự Môn ở Tỵ, Thìn, Tuất

– Thiên Lương ở Tỵ, Hợi

– Thất Sát ở Thìn, Tuất

– Phá Quân

– Phá Quân ở Thìn, Tuất

– Hỏa Tinh, Linh Tinh, Phá Quân đồng cung

– Kình Dương, Đà La, Thất Sát đồng cung

– Thiên Mã, Đà La và sát tinh

– Cô Thần, Quả Tú và sát tinh

– Tuần, Triệt tại cung Phụ Mẫu

Ngoài ra, năm sinh và giờ sinh của mình đôi khi có ảnh hưởng đến sự vắn số của cha mẹ trong 3 trường hợp sau:

– sinh năm Dần, Ngọ, Tỵ, Dậu giờ Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì rất độc: mồ côi sớm;

– sinh năm Dần, Hợi, Tỵ, giờ Ngọ, Thân, Dậu, Hợi: khắc cha từ lúc còn nhỏ tuổi nhưng nếu qua 16 tuổi mà chưa mồ côi cha thì coi như không mồ côi sớm nữa;

– sinh năm Thìn, Tỵ, Sửu, Mùi giờ Tý, Ngọ, Mão, Tỵ, Hợi, Thân, Dậu: khắc mẹ trước.

Ba trường hợp trên phải được tính phối hợp với các sao ở cung Phụ Mẫu kể trên để có thêm yếu tố quyết đoán.

b. Cha mẹ chia ly: không kể mỗi người đi làm ăn một phương rồi thỉnh thoảng gặp lại, tình trạng chia ly ở đây được hiểu là xa cách hẳn nhau, không tái họp vì những nguyên nhân như ly thân, ly hôn, tử biệt. Có thể tham chiếu đoạn nói về vợ chồng chia ly để khảo sát tình trạng chia ly của cha mẹ. Mặt khác, đôi khi tình trạng chia ly gần giống tình trạng chết sớm. Ngoài ra, những họa xảy ra cho cá nhân đều có thể ứng cho Phụ Mẫu nếu những bộ sao đó đóng ở cung Phụ.

c. Cha mẹ để nợ cho con cái: thể hiện qua các sao tài lộc bị sát tinh đi kèm, đôi khi bị hao bại tinh đi kèm. Mặt khác, cung Tài của đương số cũng có hao bại tinh, nhất là Tuần, Triệt, ngụ ý rằng chậm có tiền.

d. Cha mẹ bệnh tật nặng: xem trong cách bệnh, tật.

8. Họa cho anh em, chị em: ảnh hưởng đến sự yểu chiết, sự hư đốn của anh chi em, sự hình khắc bất hòa, tranh chấp giữa anh chị em, ruột hay nuôi hay ghẻ. Các bộ sao nói lên tình trạng trên đều tương tự với các bộ sao yểu, hư, hình khắc … giữa vọ chồng, con cái hay cha mẹ.

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Bảy 18, 2012 in Nghiên cứu Tử Vi

 

Bình giải các cách tử vi – CÁCH BỆNH,TẬT – NHỮNG SAO BỆNH, TẬT

1. Những bệnh về bộ máy tiêu hóa: thông thường, bộ máy tiêu hóa do 5 sao chỉ định: Thiên Đồng, Đại Hao, Tiểu Hao, Thiên Riêu, Hỷ Thần. Chỉ riêng Thiên Riêu chỉ ruột và Hỷ Thần chỉ Hậu Môn, ba sao còn lại không chỉ đích danh bộ phận nào trong bộ máy tiêu hóa. Theo nguyên tắc, hễ sao chỉ bộ máy tiêu hóa mà đi chung với sát tinh, hình tinh, hao bại tinh, ám tinh thì tất bị bệnh.

Địa Không, Địa Kiếp: đây là hai sao chỉ bệnh nặng nói chung, trong đó có bệnh về bộ máy tiêu hóa nếu đi chung với một trong 5 sao chỉ bộ máy tiêu hóa. Vì Không Kiếp chỉ ung nhọt, chốc lở nên bộ máy tiêu hóa có thể bị rách, chảy máu. Về cường độ, vì Không Kiếp là sát tinh hạng nặng cho nên bệnh sẽ nặng, nhất là khi hãm địa. Vốn là sao Hỏa, nên bệnh bột phát bất ngờ.

Thiên Hình, Kiếp Sát: một trong hai sao này chỉ về mổ xẻ. Bộ máy tiêu hóa có thể bị giải phẫu. Bệnh sẽ tương đối nặng, nhất là khi gặp cả hai sao.

Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh: bốn sao này chỉ bệnh nhưng không rõ tính chất và cường độ nhưng chắc chắn không nặng bằng Không Kiếp.

Đại Hao, Tiểu Hao: Đúng ra, Song Hao chỉ bệnh đau bụng, tiêu chảy. ở Mệnh hay Tật, Song Hao chỉ tạng của người hay đi tiêu chảy, tái đi tái lại, hầu như kinh niên. Cũng có thể là bệnh ăn không tiêu, kém ăn, trúng thực, thượng thổ hạ tả.

Hóa Kỵ: chỉ trục trặc nhỏ trong bộ máy tiêu hóa, do sự dùng thuốc quá liều, hay ăn trúng phải chất có hại cho tiêu hóa (Hóa Kỵ là hóa chất).

Thiên Khốc, Thiên Hư: chỉ sự lục đục, hao hoại ngấm ngầm của bộ máy, không hẳn là bệnh nhưng gây khó chịu như ăn không tiêu, trục trặc không rõ căn nguyên. Một nguyên do khả hữu là vì bộ răng không tốt, nhai thức ăn không kỹ. Đây cũng là một bệnh kinh niên.

Ngoài ra, những bộ sao dưới đây liên quan đến bệnh tiêu hóa nói chung:

– Thái Âm hãm địa

– Vũ Khúc, Thất Sát

– Thiên Đồng, Hóa Kỵ

– Thiên Trù, Đại, Tiểu Hao

bệnh do ăn uống quá độ hoặc ăn món lạ bị ngộ độc. Đây là bệnh của người ăn nhiều cao lương mỹ vị, trà dư tửu hậu, thường thấy trong giới ngoại giao, bợm nhậu.

– Riêu, Đà, Kỵ: đau bao tử, đau ruột

– Không, Kiếp, Bệnh, Cơ: bệnh mật

– Không, Kiếp, Hỷ Thần: bệnh trĩ

– Tham, Đà: bệnh do ăn uống quá độ, bội thực

– Bệnh Phù: hay đau dạ dày, đầy hơi, kiết lỵ hoặc thiếu dinh dưỡng sinh ra phù thũng.

2. Những bệnh về bộ máy hô hấp:

Địa Không, Địa Kiếp: chỉ bệnh đau phổi dưới nhiều hình thái và cường độ khác nhau từ ho, suyễn, yếu phổi, kém khí cho đến lao, ung thư phổi, sưng phổi.

Tang, Hổ, Khốc, Hư: ho lao

Thái Âm hãm địa: đau phổi

Thiên Cơ, Khốc, Hư: phong đờm, ho ra máu

Thiên Khốc: phổi yếu, hay ho vặt

Hình, Bệnh hay Tử: có thể bị lao hay kinh phong

Ngoài ra, những sát tinh, hình tinh, hao bại tinh, kỵ tinh ứng dụng vào bộ máy hô hấp sẽ mô tả thêm rõ hơn hình thái hoặc cường độ của bệnh. Ví dụ, gặp Thiên Hình Kiếp sát thì bệnh hô hấp có thể phải mổ, bị Song Hao thì bệnh phổi hay tái phát nhiều lần gần như trầm kha; gặp Hóa Kỵ thì sinh thêm bệnh tiêu hóa vì dùng quá nhiều thuốc trị phổi; gặp Lưu Hà thì có thể là phổi có nước …

3. Những bệnh về bộ máy tuần hoàn:

Hai sao Tang Môn và Bạch Hổ chỉ máu.

Lâm Quan, Hỏa hay Linh: bệnh chảy máu cam, xuất huyết, đứt mạch máu

Bạch Hổ: máu xấu, nhất là đối với phụ nữ.

Tang Môn, Bạch Hổ: bệnh khí huyết, bệnh thiếu máu, căng mạch máu, yếu tim, đau tim.

Đào Hoa, Hồng Loan: yếu tim

Lưu Hà: bệnh máu loãng, hay ra máu khi bị thương, bệnh hoại huyết

4. Những bệnh về bộ máy bài tiết và sinh dục:

Thiên Riêu hay Thiên Hư: bệnh suy thận, dương hư

Tham, Riêu – Đào, Hồng, Không, Kiếp – Riêu, Cái: chỉ bệnh phong tình

Đào, Hồng, Kỵ, Mộc – Đào, Hình, Thai, Mộc: chỉ bệnh “phạm phòng”.

Thai, Không, Kiếp: chỉ bệnh đau tử cung, lệch hay sa tử cung

Cự, Kình, Hỏa – Tham ở Tý, Ngọ (có thể đi kèm với Đà La): bệnh do tửu sắc, sinh dục quá độ.

Nếu đi chung với Không Kiếp thường là nặng và có máu mủ; với Thiên Hình, Kiếp Sát có thể bị mổ xẻ …

5. Những bệnh về tai, mũi, họng: Long Trì chỉ mũi, Phượng Các chỉ tai, Phá Toái chỉ cuống họng.

Phượng, Kình, Đà: bệnh ở tai, cứng tai, lãng tai, sớm lãng tai, điếc.

Trì, Khốc, Hư: bệnh lở mũi, có Thiên Hình là có mổ, có Hỏa Tinh Linh Tinh là có đốt.

Lâm Quan, Địa Kiếp: bệnh yết hầu, thịt dư ở cổ họng.

Phá Toái, Hình hay Hư, Khốc: đau cuống họng, tiếng khàn rè

Riêu: đau răng, hư răng, sớm rụng răng.

6. Những bệnh của sản phụ:

Đào, Hồng, Kình, Kỵ, Mộc: bệnh tiểu sản, hậu sản

Không, Kiếp, Mộc hay Kỵ, Mộc: bệnh sản thai, đau dạ con, khó đẻ

Nguyệt hãm hay Nguyệt, Kỵ hay Nhật, Kỵ, Hư: âm hư, kinh nguyệt không đều, dương hư, có bệnh về bộ phận sản dục ảnh hưởng đến sự thụ thai, sinh đẻ.

Lưu Hà hay Tang, Hổ: khi sinh đẻ hay bị băng huyết vì máu loãng.

7. Những bệnh ngoài da:

Vũ, Cơ: Bệnh ngoài da hay tê thấp.

Tướng ở Mão, Dậu: da mặt vàng, có bệnh thuộc khí huyết hoặc ngoài da.

Cơ, Nguyệt: hay có mụn nhọt

Không, Kiếp, Cơ: mụn nhọt, lở chốc có máu mủ

Phá: máu nóng lúc nhỏ tuổi sinh nhọt

Liêm, Phá: chân tay có tỳ vết

Kình, Cái, Không, Kiếp: phát ban, lên đậu

Hỏa, Linh, Mộc: phỏng nước, phỏng lửa

Liêm hãm, Hình, Kỵ: máu nóng sinh nhọt

Cự Môn hãm: môi thâm

Tham Xương: lang ben, da loang lổ

8. Những bệnh về mắt: Nhật, Nguyệt chỉ cặp mắt. Nhật là mắt trái. Nguyệt là mắt phải. Đi với sát, hình, hao, bại tinh, mắt bị bệnh từ nặng đến nhẹ.

Nhật, Kình, Kỵ ở Hợi, Tý: bị đau mắt có thể mù

Nguyệt, Riêu, Hình, Kỵ: cũng đồng nghĩa

Đà, Riêu, Kỵ: mắt kém

Phá, Vũ: hay đau mắt

9. Những bệnh về thần kinh:

Thái Dương, Thái Âm sáng sủa thường là chỉ dấu của bệnh thần kinh, biểu lộ dưới nhiều hình thái như mất ngủ, căng thẳng tinh thần, tăng huyết áp, lo âu quá đáng.

Nhật, Cự: ngây ngô, hơi khùng, suy luận không bình thường. Nhật càng sáng, bệnh càng nặng.

Nhật, Không, Kiếp – Phá, Hỏa, Linh – Nhật và nhiều sao hỏa ở cung Hỏa – Phá, Kình, Đà, Hình, Kỵ: khùng và điên.

Ngoài ra, Mệnh nào có Tang Hổ Khốc Hư Cô Quả Đẩu Quân thường u buồn, ủy mị, dồn ép.

10. Những bệnh ở chân tay, gân cốt:

Về cơ thể, chân tay do Thiên Mã chỉ danh. Về bệnh lý, Kình, Đà cũng có nghĩa bệnh tật liên quan đến tứ chi.

Mã, Đà: có tật ở chân tay

Mã, Hình: có thương tích ở chân tay

Mã, Tuần, Triệt: trật xương, gãy chân tay

Hình, Đà: chân tay bị yếu gân

Vũ, Riêu: tê thấp hoặc phù chân tay

11. Những bệnh lạ:

Cơ, Hỏa, Linh: bệnh ma làm, quỷ ám

Riêu, Hỏa, Linh: bị ma quỷ phá phách, quấy nhiễu

Sát, Hao, Mộc, Kỵ: ung thư

Bệnh Phù, Hình, Kỵ: hủi

12. Những tật:

Vượng, Kình, Đà hay Hình: lưng có tật: lưng gù, sái chiều nghiêng về phía phải hay trái.

Mã, Đà hay Tuần Triệt: có tật ở chân tay: què, chân dài chân ngắn, tay cán xẻng, tay lọi, chân hay tay to nhỏ không đều, có thể cụt một chân hay một tay, hoặc mất bàn chân, bàn tay.

Việt, Đại Tiểu Hao: so vai, xệ vai, vai cao, vai thấp. Khôi, Việt gặp Hình cũng có nghĩa này.

Tướng, Hình: có tật ở trên đầu: đầu méo, đầu to hay thật nhỏ, đầu xói hết tóc …

Phục, Hình: nói ngọng

Tuế, Đà, Riêu, Cái: nói lắp

Vũ, Riêu, Việt, Toái: câm

Sát, Kình, Đà, Linh, Hỏa: gù lưng

Cự, Hỏa hay Linh: miệng méo

Kỵ, Riêu: sứt môi

Phượng, Kiếp, Kình: điếc

Trì, Kình: mũi sống trâu, mũi lệch

Nhật, Nguyệt gặp Riêu, Đà hay Kỵ: mắt có tật: cận thị, viễn thị, loạn thị. Nếu gặp cả ba thì tật nặng có thể lòa, quáng gà.

Vũ, Tướng: có ám tật, tật kín

Cự, Nhật: hình dáng dị kỳ

Tồn, Không, Kiếp: có ám tật mới sống lâu..

 
Bình luận về bài viết này

Posted by trên Tháng Bảy 18, 2012 in Nghiên cứu Tử Vi

 
 
Vietnam+ (VietnamPlus)

Góc nhỏ tâm hồn

Đoan Trang

Góc nhỏ tâm hồn

Góc nhỏ tâm hồn

Góc nhỏ tâm hồn

Góc nhỏ tâm hồn

giangle

Góc nhỏ tâm hồn

Trang chủ

Góc nhỏ tâm hồn

Dự đoán kinh tế Việt Nam

Blog tổng hợp tin tức nhận định về kinh tế Việt Nam

Chuyện thường ngày...

Góc nhỏ tâm hồn

BA SÀM

Cơ quan ngôn luận của THÔNG TẤN XÃ VỈA HÈ

nước Mỹ, nước Mỹ

Góc nhỏ tâm hồn

saurieng

Góc nhỏ tâm hồn

Cavenui

Đã thấy - Đã nếm - Đã chán

Quê choa

(blog cũ của nhà văn Nguyễn Quang Lập)

Vuhavan's Blog

Just another WordPress.com weblog

THÔNG TIN PHÁP LUẬT DÂN SỰ

Các bài viết đăng trên weblog này chỉ có mục đích phục vụ học tập và nghiên cứu khoa học không có mục đích thương mại